TIN TỨC

Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-17 21:16:16
mail facebook google pos stwis
1357 lượt xem

Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…

Natalya, từ một phụ nữ được xem là “Hoa hậu của nước Nga”, bỗng chốc nàng trở thành một trong những người đàn bà bị nguyền rủa nhiều nhất trong thế kỷ. Dẫu vậy, có lẽ chỉ người “trong cuộc” mới hiểu đúng được thực chất vấn đề. Không dưng mà trước khi trút hơi thở cuối cùng, Pushkin đã âu yếm nói với nàng: “Anh sung sướng quá vì còn được gặp em và ở bên em. Dù thế nào đi chăng nữa em không có lỗi gì cả, em không đáng trách…”.

Lần đầu tiên Pushkin gặp Natalya là vào tháng 12.1828, tại một vũ hội ở Moskva. Khi ấy, nàng mới 16 tuổi, sắc đẹp có thể làm lu mờ tất cả các mỹ nữ của thành phố này, và Pushkin, khi ấy ở độ tuổi xấp xỉ ba mươi, đang được xem là thi sĩ số một của nước Nga. Ngay buổi ban đầu, Pushkin đã thực sự choáng váng bởi vẻ đẹp thiên thần, tính cách khiêm tốn và thanh lịch của nàng. “Khi tôi gặp nàng lần đầu tiên, ở giới thượng lưu người ta mới chú ý tới nhan sắc của nàng, còn tôi thì yêu nàng, đầu óc tôi quay cuồng…” – Trong thư gửi mẹ vợ tương lai, Pushkin đã viết như vậy.

Kể từ đấy, chàng thi sĩ bắt đầu lui tới nhà người đẹp và đến tháng 4.1829, “để kết thúc thời trai trẻ và thoát ra khỏi tình cảnh bất cứ cậu thanh niên mới lớn nào cũng có thể vỗ vai mình mà rủ rê nhập những hội ba láp”, Pushkin chính thức ngỏ lời cầu hôn với Natalya.

“Tôi xin cam đoan với nàng bằng lời hứa danh dự, rằng tôi chỉ thuộc về nàng hoặc sẽ không bao giờ lấy vợ” – Pushkin khẳng định quyết tâm của mình bằng những lời như đinh đóng cột.

Mặc dù gặp phải không ít trở ngại từ phía bà mẹ của Natalya, cuối cùng cuộc hôn lễ giữa cặp trai tài gái sắc ấy cũng đã được tổ chức vào ngày 18.02.1831.

Có một sự cố xảy ra ngay hôm đó mà sau này nhiều sử gia văn học vẫn thường nhắc lại: Trong lúc làm hôn lễ ở nhà thờ, khi chú rể cùng cô dâu đi vòng quanh bục Thánh thì đột nhiên cây thánh giá và quyển kinh Phúc âm rơi xuống đất. Pushkin tái mặt. Sau đó cây nến trong tay nhà thờ lại bị tắt. Là một người khá mê tín, Pushkin lẩm bẩm: “Toàn điềm gở hết”. Nhà thơ không thể không lo lắng cho hạnh phúc tương lai của mình.

Sau khi cưới được ít ngày, vợ chồng Pushkin chuyển về sống ở Peterburg.

Những năm đầu chung sống, họ thực sự cảm thấy hạnh phúc. Natalya là một phụ nữ có học vấn khá, biết tiếng Đức, tiếng Anh và rất giỏi tiếng Pháp. Nàng không những có kinh nghiệm trong việc dạy dỗ con cái mà còn tham gia giúp đỡ chồng trong quá trình sáng tác. Có thể nói, trong những năm tháng lang thang, lưu đày, không tổ ấm gia đình, Pushkin đã tìm thấy từ người vợ trẻ của mình những cảm xúc lớn lao: Đó là tình yêu, là hạnh phúc gia đình. Điều này bạn đọc có thể tìm thấy trong nhiều vần thơ bất hủ của ông.

Trong 6 năm gắn bó, hai người đã có với nhau cả thảy 4 người con, hai trai, hai gái. “Gia đình tôi ngày càng đông vui. Bây giờ, hình như không có gì để than phiền về cuộc sống, và không sợ gì tuổi già” – Pushkin đã tâm sự với một người bạn như vậy.

Nhưng rồi, những bóng mây hắc ám đã ngày một dồn tụ trên mái nhà êm ấm của họ.

Trước nhất phải thấy, lối sống ồn ã, xô bồ của Peterburg đã làm Pushkin quay cuồng, mệt mỏi. Ông lại là người cả ghen, không bao giờ thích vợ đến dự một cuộc vui nào mà ông không có mặt. Trong một lá thư gửi bạn, Pushkin đã nói rõ tình cảnh trớ trêu của mình: “Tôi chóng mặt giữa đám thượng lưu. Vợ tôi rất hợp mốt. Tất cả những cái đó đòi hỏi tiền, mà tiền thì tôi kiếm bằng lao động. Nhưng muốn lao động thì cần được yên tĩnh”.

Thời gian này Pushkin làm việc ở Bộ Ngoại giao. Ông có ý định nghỉ hưu và đi về nông thôn sáng tác, song không được Sa hoàng Nikolai Đệ nhất chấp thuận.

Và thế là những tai ương mà Pushkin từng linh cảm đã đến. Một ngày nọ, tại phòng khách nhà bà quả phụ của nhà văn, nhà sử học nổi tiếng Karamdin, vợ chồng Pushkin đã gặp Dantes, một tên bảo hàng Pháp lưu vong, bấy giờ đang là sĩ quan cận vệ của Nga hoàng.

Dantes sinh năm 1812, bằng tuổi vợ Pushkin. Với diện mạo điển trai, tác phong nhanh nhẹn, tính tình vui nhộn và ba hoa, y được đón tiếp thân mật ở mọi nơi. Trong những ngày đầu, Dantes còn gây được cảm tình của cả Pushkin, tuy nhiên, ít lâu sau, mỗi độ giáp mặt, hắn đã không giấu được cử chỉ suồng sã và con mắt đầy dục vọng. Pushkin đã không ít lần phải nghiến răng trừng mắt trước những hành động ve vãn rất lộ liễu của hắn với vợ ông. Và ông thực sự lấy làm buồn bã, đau khổ khi Natalya đã để Dantes mặc nhiên tán tỉnh mình. Đặc biệt, trong buổi lễ sinh nhật con dâu nhà Karamdin ngày 17.9.1836, Natalya còn nhận lời nhảy với Dantes hết điệu này đến điệu khác, như không hay biết Pushkin đứng cau có ở cạnh đấy.

Ngoài giả thuyết Pushkin xung khắc với Dantes vì gã có tình ý với Natalya, hiện ở Nga còn lưu truyền một giả thuyết khác, rằng cả hai cùng mê cô em gái của Natalya và đó là lý do để hai người sau này được gọi là “anh em đồng hao” ghét nhau cay đắng. Nhưng thôi, xin cứ tập trung vào giả thuyết mà nhiều người vẫn nhắc tới từ trước tới nay. Xung đột đã lên tới đỉnh điểm khi một ngày nọ, Pushkin nhận được thông tin từ vợ mình: Dantes rủ nàng bỏ chồng để theo gã ra nước ngoài. Không chỉ có vậy, Pushkin còn nhận được qua bưu điện bức thư nặc danh, trong đó đối thủ thóa mạ nhà thơ là “Ông vua mọc sừng”. Đến nước này thì Pushkin không chịu đựng nổi. Ông viết thư thách Dantes cùng ông quyết đấu.

Sau nhiều lần trì hoãn (từ phía Dantes), cuối cùng cuộc đấu súng đã diễn ra. Đó là một buổi chiều lạnh giá (ngày 27.01.1837), gió lộng gào. Bên bờ sông nhỏ ở ngoại ô Peterburg, trước sự chứng kiến của Danzat – người bạn cùng học thời Liceum với Pushkin, nhà thơ vĩ đại của nước Nga cùng tên đê tiện người Pháp bước vào cuộc sống mái. Một tình tiết thật đáng ghi nhớ: Pushkin cùng bạn đi đến điểm hẹn bằng xe trượt tuyết, dọc đường có chiếc xe chở Natalya đi ngược chiều, nhưng bởi Natalya cận thị, và Pushkin mải nhìn đi hướng khác, nên họ không liên hệ gì được với nhau.

Sau khi người làm chứng chuẩn bị xong “bãi chiến trường” và vũ khí, hai địch thủ nhận được tín hiệu tiến lại phía nhau.

Pushkin tiến đến vị trí trước, dừng lại và giơ súng lên. Nhưng Dantes đã nhanh hơn ông. Mặc dù còn cách vị trí một bước nữa, hắn đã nổ súng. Pushkin ngã gục xuống. Danzat chạy tới đỡ bạn dậy, khẩu súng lục trên tay Pushkin tuột rơi xuống tuyết. Danzat đưa lại súng cho bạn. Pushkin nhắm bắn hồi lâu. Đạn xuyên qua cánh tay Dantes nhưng chỉ chạm vào phần mềm và dắt lại chỗ ngang dạ dày. Tuy chỉ bị thương nhẹ song y lảo đảo rồi ngã. Mặc dù máu ra nhiều, Pushkin vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra sự việc. Ông lẩm nhẩm: “Chừng như cuộc đấu giữa chúng ta chưa xong”.

Có nhiều giả thuyết xoay quanh cuộc đấu này của Pushkin, mà cơ bản là: Có lẽ trong lúc quyết đấu, tên Dantes hèn nhát đã mặc một chiếc áo giáp ở trong nên viên đạn chỉ làm y bị thương nhẹ. Lại có ý kiến cho rằng, lỗi tại Pushkin không nhanh nhạy! Ông nổ súng hơi muộn, giá sớm hơn một chút thì tình thế đã khác.

Pushkin được dìu lên xe, đưa về nhà. Mặc dù rất đỗi đau đớn, song ông cố gắng chịu đựng để những người thân khỏi lo âu, thất vọng. Chính tại đây ông đã có những lời hết sức dịu dàng để an ủi vợ: “Anh sung sướng quá vì còn được gặp em và ở bên em. Dù thế nào đi nữa em không có lỗi gì cả, em không đáng trách”.

Do vết thương quá nặng, hồi 14h15′ ngày 29.01.1837, Pushkin trút hơi thở cuối cùng. Bạn bè chứng kiến phút giây bi thương này đã nhận xét rằng: Chưa bao giờ họ được trông thấy một khuôn mặt người hấp hối nào lại trong sáng, thanh thản và nên thơ đến thế. Trước khi tạ thế, Pushkin đã nắm chặt bàn tay V.I.Dan, một nhà văn ngồi bên giường ông, nói: “Bạn ạ, hãy nâng tôi lên đi, ta lên cao, cao nữa, cao mãi…”. Trước đó, ông không quên dặn vợ: “Em hãy về sống ở làng quê, để tang anh hai năm rồi đi lấy chồng, nhưng phải lấy một người đứng đắn”

PHẠM MẠNH HOÀNG/VANVN

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm