TIN TỨC

Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-24 23:59:17
mail facebook google pos stwis
3 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Kỷ niệm 440 năm ngày mất Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, (1585-2025)

Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về Trạng Trình Quốc Công như sau: “Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn. Ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều môn đệ tiếng tăm lẫy lừng như Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Giáp Hải, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Nguyễn Văn Chính… Những người này có sở học đạt đến trình độ uyên bác và đều là danh thần vang tiếng một thời. Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy bóng dáng Nguyễn Bỉnh Khiêm rất lớn, là cây đại thụ che mát cả một khoảng sân rộng của lịch sử và văn học  thời kỳ trung đại.

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

 

Xuất thế để… hành đạo!

So sánh về thái độ “nhập thế” để hành đạo với đời thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần giống với Phan Bội Châu, vì cả hai đều bất mãn thời cuộc mà buổi đầu “ẩn chí đợi thời”, chẳng màng thi thố tài năng.

Trong lúc, về sau, Phan Sào Nam với than vắn thở dài rằng “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” nhưng vì bất đắc dĩ với chữ “danh” để mà hành sự, vậy nên phải quy lụy quan trường tòng theo lời răn của Khổng Tử: danh phải chính để cho ngôn được thuận. Thì trước đó, trong thời buổi Lê suy, “không còn cảnh tượng thái bình”, “khắp nơi chỗ nào cũng máu chảy thành sông, xương chất thành núi”, Trình Quốc công không chịu ra thi, mà ẩn sĩ chờ thời. Phải đến khi nhà Mạc thay Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra ứng thí. Và chỉ cần xắn tay vẩy bút, cả hai người đều đã đỗ giải nguyên.

Về thái độ “xuất thế” để lánh đục tìm trong, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có phần giống Tam nguyên Yên Đỗ. Vì, Bạch Vân Cư Sĩ cáo quan ẩn dật sau tám năm ngao ngán lộng thần nơi chốn quan trường, thì Nguyễn Khuyến cũng chỉ làm quan được mười năm rồi cáo quan. Và, cả hai từ quan nhưng đều canh cánh trong lòng bởi trách nhiệm kẻ sĩ. Thế mà cách ứng xử sau đó lại khác. Nguyễn khuyến dù day dứt “Ơn vua chưa chút báo đền/ Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời” nhưng lại có phần cự tuyệt khi dặn con: “Đề vào mấy chữ trong bia/ Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” (Di Chúc). Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, “vì muốn tác động đến thời cuộc và vì sự ràng buộc của nhà Mạc đối với những sĩ phu có uy vọng, ông đã trở lại tham chính” (Từ điển văn học, Bộ mới, NXB Thế Giới, tr 1108). Rồi sau đó phải đến bảy mươi tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới treo mũ từ quan.

Vì vậy, có thể thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hiện tượng khá đặc biệt trong liệt sử trung đại. Trong con người, ông là người nhập cuộc với triết lý Khổng giáo. Trong sáng tác, nhất là khi về ẩn, lập “quán”, xây chùa, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa có thiên hướng thế sự vừa nhuốm nhiều màu sắc tư tưởng Lão Trang.

Đoạn “trung chuyển” trong “dòng chảy” thơ Nôm dân tộc

Xét về vị trí của các tác giả trong dòng chảy văn học, nếu Nguyễn Trãi là người kết tinh thời kỳ vàng son văn hóa Lý – Trần, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là người theo sau, kế thừa tinh hoa Nguyễn Trãi và đạt đến đỉnh cao, thêm một bước hoàn thiện cả về tư tưởng, bút pháp, và thể loại cho thi ca dân tộc. Chỉ cần so sánh Nôm đủ cho ta thấy điều đó: Nếu Quốc âm thi tập (được xem là tập thơ viết bằng chữ Nôm sớm nhất của văn học nước nhà), mặc dù được Nguyễn Trãi ý thức cách tân “Nôm hóa” thơ thất ngôn Đường luật chữ Hán bằng nhiều câu thơ lục ngôn, song vẫn còn đậm đặc yếu tố cổ điển. Thì đến Bạch Vân quốc ngữ thi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “lột xác” cho thơ Nôm dân tộc, “Việt hóa” rất nhiều, từ ngôn từ, mỹ cảm cho đến tâm thức… Tất cả đều nhuốm màu thế sự, thấm đẫm hơi thở thời đại, đậm đặc đạo lý luân thường. Mà phải chờ khá lâu sau đó, chờ đến áng thơ Nôm trác việt kết tụ linh hồn dân tộc Truyện Kiều (Nguyễn Du) và thơ Nôm của “bà Chúa” Hồ Xuân Hương, dòng chảy thơ Nôm Việt Nam mới thật sự thăng hoa, đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo. Nhìn bao quát ra như thế để thấy rằng, trong dòng chảy ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là chiếc cầu nối, là một mắt xích quan trọng, là vị trí khó có thể thiếu trống.

Bạch Vân quốc ngữ thi là đoạn trung chuyển của dòng chảy ấy, mà tiêu biểu nhất là bài thơ Nhàn (Thú nhàn). Bài thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 10. Đây được xem là bài thơ khá đặc biệt vì nó kết tinh tư tưởng sâu sắc quan niệm sống của những bậc đại hiền triết thức giả Á Đông xa xưa. Những chiêm nghiệm sống ấy của tác giả ngày nay vẫn còn nguyên những giá trị thực tiễn với nhiều thâm thúy sâu sắc trong cách nhìn và quan niệm nhân sinh sâu sắc.

Chân dung Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm

 

Nhà tiên tri “số 1” của dân tộc

Nhiều giai thoại và sử sách ghi lại Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri với nhiều lời “sấm” truyền, những lời mách bảo nhằm hạn chế chiến tranh đổ máu, hạn chế dịch bệnh. Theo Wikipedia tiếng Việt: “Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau”. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ thế kỷ 16.

“Sấm Trạng Trình” từng mách bảo nhà Mạc chạy lên Cao Bằng lập nghiệp. Từng khuyên Trịnh Kiểm “giữ chùa thờ Phật được ăn oản”, căn cớ lập nên nhà Lê. Từng khuyên chúa Nguyễn Hoàng lập nên vùng đất Thuận Hóa với câu nói ẩn ý nổi tiếng “hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”. Tại xã Nam Tân (Nam Đàn, Nghệ An) còn lưu lại câu chuyện về khe Bò Đái, gắn liền với câu sấm truyền đời được cho là của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Nam Đàn sinh thánh”. Cũng phải chăng vì lý do này mà trong Cao Đài Tam Thánh (thờ tại Tòa thánh Cao Đài tỉnh Tây Ninh), người ta lại chọn Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng cạnh nhà cách mạng Trung Quốc Tôn Dật Tiên và đại văn hào Pháp Victor Hugo…

Triết lý ý vị từ bài thơ “Nhàn” 

Bài thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình Ngữ văn lớp 10. Đây được xem là bài thơ khá đặc biệt vì nó kết tinh tư tưởng sâu sắc quan niệm sống của những bậc đại hiền triết thức giả Á Đông xa xưa Những chiêm nghiệm sống ấy của tác giả ngày nay vẫn còn nguyên những giá trị thực tiễn với nhiều thâm thúy trong cách nhìn theo chiết tự Hán học.

Thứ nhất, sự thâm thúy của bài thơ thể hiện ở nhan đề “Nhàn”, mặc dù nó được người đời sau đặt. Trong Hán tự, chữ “nhàn” được ghép bởi bộ “nhân” (“nhân” đứng, là người, đứng bên trái tự) hội ý với bộ “môn” (là cửa), trong bộ “môn” có bộ “nguyệt” (là trăng). Khi hội ý như thế, chữ “nhàn” có nghĩa là: người thảnh thơi ngắm trăng rọi vào khung cửa. Như vậy, lúc nào mà chúng ta có những giây phút giao hòa với thiên nhiên như thế mới gọi là nhàn. Ngày nay, để có được những phút giây như thế thực là rất hiếm lắm thay.

Trong bài thơ có câu này: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”. Nơi vắng vẻ là nơi nào? Là nơi “sơn lâm” (rừng núi) mà cái lẽ đời người ta thường nói “Bần cư tại thị vô nhân vấn/ Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. Đọc câu thơ này của Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi lại nhớ đến một Hán tự khác, đó là chữ “tiên” (ông Tiên, ông Bụt). Theo sự hội ý của từ này thì “tiên” không phải là người trên trời mà là người trên núi (sơn). Vì chữ “tiên” được ghép bởi bộ “nhân” (như nói ở trên) và bộ “sơn” (đúng bên phải). Nghĩa là người sống trên núi thì được gọi là tiên. Mà dân gian ta hay nói “sướng như tiên”. Vậy thì xem ra Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có… dại!

Ở cặp câu kết, tác giả viết: “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiếm bao”. Tôi xin không bàn câu thơ sau, mà chỉ bàn đến câu nói về… “tửu đạo”.  Rượu, ừ thì uống chứ. Uống một cách ung dung, tự tại, chẳng ai cấm, không ai ép. Nhưng mà uống dưới gốc cây kia, uống như cụ Nguyễn Khuyến để vừa ngoạn cảnh thu Bắc bộ kia. Chứ tuyệt nhiên không uống ở… nhà hàng, quán bar, vỉa hè, đường phố như cách nhìn  kiểu “lô nhô loài người” của nhạc Trịnh. Uống dưới “cội cây” là uống giữa thiên nhiên, uống để tịnh trí, tịnh tâm, tịnh dưỡng.

Nói đến đây tôi lại nhớ đến chữ “hưu” (nghỉ hưu, hưu trí) trong chữ Hán. Chữ này gồm bộ “nhân” (cũng như đã nói trên) ghép với bộ “mộc” (cây, bên phải). Nghĩa là, theo người xưa, nghỉ hưu, về hưu là về ở dưới gốc cây, về với vườn tược, thiên nhiên. Chứ không phải về ở… trại dưỡng lão, về với… bốn bức tường lạnh giá và với chiếc tivi nóng hổi thế sự. Không phải về để mà… nuôi cháu giữ chắt đàn đàn đống đống như bao cụ ông cụ bà ngày nay!

                                                                                                             Trần Ngọc Tuấn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những kiếp người đến bờ bên kia...
11 nhân vật với số phận, nghề nghiệp khác nhau, cùng xuôi đến bờ bên kia trên một chuyến đò ngang. Mỗi người đều mang theo nhiều triết lý để nhìn cuộc đời nên vì thế mà con đò cũng nặng trĩu...
Xem thêm
Nguyễn Bắc Sơn: Nhà văn tiên phong trong đổi mới
Nguyễn Bắc Sơn bước vào lĩnh vực tiểu thuyết sau khi đã cho ra mắt hơn mười tác phẩm đủ các thể loại bút ký, tiểu luận, truyện ngắn. Đứng về phương diện nào đó, có thể xem bộ ba tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu - Vỡ vụn - Cuộc vuông tròn là sự tổng kết đời văn của anh.
Xem thêm
Ký ức chiến tranh nhìn từ lăng kính nữ
Chiến tranh không khép lại vào năm 1975 mà tiếp tục vang vọng trong ký ức của những thế hệ di cư. Với thế hệ 1.5, ký ức ấy không đến từ trải nghiệm trực tiếp mà được truyền qua lời kể của mẹ, của bà, của những thân thể mang thương tích lịch sử. Trong Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong không chỉ viết lại ký ức chiến tranh từ bên lề, mà còn khẳng định quyền được kể chuyện của những người từng bị câm lặng. Văn chương, từ đó, trở thành không gian của đối thoại, của tự chữa lành và giành lại bản sắc.
Xem thêm
Một thoáng vui buồn trên cù lao Biện
Từ trạm đèn Biển Sơn nhìn quanh bốn phía chúng tôi thấy bán đảo Biện Sơn (phường Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa) hiện ra giống như một cánh tay khổng lồ vươn về phía biển, ôm gọn vào lòng một vụng nước xanh màu ngọc bích rất đẹp. Cũng trên ngọn đèn biển ấy, chúng tôi trông về phía cầu cảng đang chạy ra xa, phía ngoài vụng nước mênh mông xanh màu ngọc bích, thấy khu kinh tế Nghi Sơn nổi bật lên những khu phố hiện đại với các nhà máy nhiệt điện, nhà máy lọc dầu và nhà máy xi măng, từng nổi tiếng cả nước.
Xem thêm
Về 3 vị tướng vừa được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Bài viết về các anh hùng của Trung tướng Nguyễn Đức Hải
Xem thêm
Hyền thoại cánh diều Hải Thượng Lãn Ông
Bài viết phục vụ Lễ Kỷ niệm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông (1724-2024) và vinh danh Người Danh nhân văn hóa thế giới vào tháng 12/2024
Xem thêm
Tài ứng đối của Mạc Đĩnh Chi khiến triều Nguyên nể phục
Mạc Đĩnh Chi là vị trạng nguyên nổi tiếng thông minh uyên bác. Sinh thời, ông để lại nhiều giai thoại hay, thể hiện tài ứng đối hơn người.
Xem thêm
Trương Tuyết Mai - Nàng thơ mắt ghe bầu & Ra mắt sách Hòa âm đêm
Videoclip hình ảnh tổng hợp về buổi Gặp gỡ, giao lưu với nhạc sĩ, nhà thơ Trương Tuyết Mai
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo – Không chỉ là Cõi Nhớ
Phóng sự hình ảnh Lễ khánh thành Khu tưởng niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo và chương trình nghệ thuật thơ nhạc “Nguyễn Trọng Tạo – Cõi nhớ”.
Xem thêm
Nhật ký trong tù bằng tiếng nước ngoài và một số bản dịch chưa được biết đến ở Việt Nam
Cho đến nay có thể nói Truyện Kiều của Nguyễn Du và Nhật ký trong tù của chủ tịch Hồ Chí Minh là hai trong số những tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra tiếng nước ngoài nhiều nhất. Thế nhưng, cho đến nay số ngôn ngữ đã dịch và số bản dịch được xuất bản của hai tác phẩm này vẫn chưa được biết đến một cách đầy đủ và thống nhất.
Xem thêm
Chuyển hoá thế trận trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Bài viết của Trung tướng, PGS, TS NGUYỄN ĐỨC HẢI, Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng/BQP
Xem thêm
Chiến thắng Điện Biên Phủ: Bản lĩnh, trí tuệ, sức mạnh đại đoàn kết
Bài trả lời phỏng vấn của Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng
Xem thêm
Câu đối trong đền thờ liệt sĩ Điện Biên Phủ
Nhớ lại hơn hai chục năm trước, từ miền nam, lần đầu tiên tôi được đến thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên. Vùng đất bảo tàng với chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đánh dấu sự chấm hết của thực dân Pháp trên đất nước ta; giải phóng một nửa đất nước đã thắm biết bao xương máu của đồng chí, đồng bào; trong đó có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 174.
Xem thêm