TIN TỨC

Dải yếm trong văn học – Tiểu luận của Đặng Tiến

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-01-30 00:24:48
mail facebook google pos stwis
2120 lượt xem

Thơ Tết, thơ Xuân thường là ước lệ. Nhưng qua những ước lệ chúng ta có được nhiều câu thơ hay, và hay về nhiều mặt: nghệ thuật, tâm cảm và phong tục. Trên ba kích thước ấy, có lẽ Nguyễn Bính là người lưu lại nhiều thơ Tết, thơ Xuân hay nhất, từ tâm sự tha hương đến hình ảnh mùa Xuân đất nước hay ngày Tết dân tộc:

Trên đường cát mịn một đôi cô

Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc

Tay lần tràng hạt miệng nam mô

(1937, Tâm Hồn Tôi)


Nhà phê bình Đặng Tiến ở Pháp.

Hình ảnh dải yếm, bắt đầu cũng chỉ ỉà một kỷ niệm, giữa rất nhiều kỷ niệm:

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa màu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu? về đâu?

Nhưng “yếm thắm” ở cuối bài thơ Bên Kia Sông Đuống là một hình ảnh tổng hợp toàn thể thanh sắc bài thơ. Giá trị gợi tình của dải yếm, ta đã thấy rồi, không cần nhắc. Chỉ nên lưu ý giá trị thẩm mỹ của từ yếm, làm bằng một câu đầu dài và khép, một nguyên âm đôi (yê) dài và rộng và một phụ âm cuối (m) môi, dài, Mỗi âm vị như vậy đều có giá trị gợi tình; nói đơn giản: trong những chữ yêu em, âu yếm, yên ấm, êm ái.. ta đều thấy phất phơ bóng dáng và âm vang chữ yếm (ngày nay vật dụng tương dượng với dải yếm được gọi là xú-cheng, hương đồng cỏ nội đã bay đi nhiều lắm). Câu thơ Hoàng Cầm Em mặc yếm thắm, mỗi từ đều có chữ m đọc thành em. Về từ vựng, tiếng Việt chỉ có hai chữ yếm: y phục phụ nữ, nới rộng ra thành hình tượng yếm cua, yếm rùa…; và chữ yếm trong nghĩa âu yếm. Nói thêm về nguyên âm đầu (voyelle initiale) thường tạo cho câu thơ cảm giác dịu dàng, mềm mại:

– Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc

(Thế Lữ)

– Trời mưa ướt bụi ướt bờ

Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em

– Yêu anh thịt nát xương mòn

Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh

(Ca Dao)

Ngày xưa nhà thơ Đông Hồ có nhà xuất bản tên Yễm Yễm có lẽ vì hình ảnh về thính giác lẫn thị giác của từ ngữ.

Hoàng Cầm vừa mới xuất bản tập thơ Về Kinh Bắc bị dìm 35 năm nay. Chỉ trong tập thơ mới này thôi, chúng ta đã tìm thấy nhiều hình tượng đẹp về dải yếm, từ người mẹ:

Mùa chưa về

Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ

dãy tre xa giấu biệt dải khăn điều

Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi

Hàng tre nhả yếm

trả mẹ về

lều dột đón mưa đêm

… Bao giờ Mẹ về

Buổi yếm đào phai vỗ hát ru

(Đợi Mùa)

Cho đến dải yếm “gợn xuân tình trên bộ ngực thanh tân” (Đinh Hùng) của những ngày hội:

Luồn tay ôm say

giấc bay lay đỉnh núi

Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành

(Thi Đánh Đu)

Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu

Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt

(Hội Vật)

Đến lúc nào đó trong sáng tạo, cái yếm mất tính chất hiện thực của nó, trở thành một hình tượng nghệ thuật có chức năng cấu tứ – như một số điển cố trong thơ xưa:

Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch

Chuông chiều cởi yếm

Chuồng sớm đội khăn

Trưa hè gãy rắc cành hoa đại

Mái hậu cung bồ các tha rơm

Liếu điếu vỗ hoa soan lả tả

Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

(Đêm Thủy)

Nhưng chức năng cấu trúc (fonction structurante) của hình ảnh dải yếm trong thơ Hoàng Cầm rõ nhất trong bài Hội yếm bay ở tập Lá Diêu Bông (1993). Giữa hàng chục đám hội hè trên quê hương Kinh Bắc. Hoàng Cầm tưởng tượng thêm “huyền sử”, một lễ hội các nàng hoa khôi phải… tung yếm:

Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết

Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây*

Vị trí ưu đãi của dải yếm trong thơ Hoàng Cầm là một biệt lệ, có thể là duy nhất trong thơ Việt Nam, vì bản thân thơ Hoàng Cầm đã mang sắc thái đặc biệt, một định mệnh lẻ loi. Ngày nay, trong thơ hiện đại – và đời sống – ta không còn thấy chiếc yếm, ngoài ký ức những nhà thơ cao tuổi như Đặng Đình Hưng (thân phụ nhạc sĩ Đặng Thái Sơn):

Bến lạ ngay gầm giường mưa to ngay ở gầm bàn và trong hòm mọi người chở một con tàu navir trọng tải những hình thù Hồng Hải, căng lên những cái yếm mùi nồng của đám cưới năm ngoái hong ra khoe và đã đi – những cột đèn đứng lại (Bến Lạ)

Ngày xưa Tế Hanh đã so sánh u cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”, ngày nay những cơn gió xa lộng vào dải yếm. Trong tập thơ Bóng Chữ mới đây, Lê Đạt đã vài ba lần sử dụng hình ảnh dải yếm, có khi lấy lại ý ca dao:

Sếu gọi đò ngang nước đổ

Dải yếm đào gảy cầu

Những cáỉ hôn gửi đi

Biền biệt phù sa

Đất hẹn má mùa nắng hạ

Vườn đồi

ai nhặt lá ô môi

(tr. 45)

Hơi thơ kín đáo, tân kỳ, có phần cầu kỳ vẫn phập phồng hơi thở trên cơ thể người đàn bà, vừa rạo rực vừa trống vắng, đang hiện thực bỗng biền biệt như một hẹn hò mới đó đã xa xăm.

Một câu thơ khác, được xem như là bí hiểm…

Mùa chẳng là xuân

Đất dậy men

Trời ghẹ lạnh

Yếm trúc nẩy măng đôi núm sừng bò

(tr. 60)

Hình ảnh đôi vú măng non căng đầy nhựa sống, mà có khi Lê Đạt tô đậm nét hơn: “cồn đất múp / Sừng gái mười bảy” – Tục ngữ có câu: gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu – Chữ yếm Việt Nam có lẽ do từ yểm chữ Hán nghĩa là che đậy. Thơ Trịnh Cốc thời Đường có câu: “Thúy yểm trùng môn yến tử nhàn”: màu xanh (cây cỏ) che kín mấy lớp cửa vào, chim yến bay thảnh thơi. Có thể Lê Đạt không biết câu thơ Trịnh Cốc, nhưng một số hình ảnh trong thi ca trở đi trở về qua nhiều thời đại. Hình ảnh mà độc giả Việt Nam ngày nay cho lập dị, có khi đã có từ thời xa xưa. Dù sao, cùng một ý thơ (che đậy) chữ “yếm trúc” của Lê Đạt tình tứ hơn chữ “thúy yểm” của Trịnh Cốc. Hoặc câu này nữa:

Lá nẩy chìa

chim yếm đỏ

nhạn thia lia

(tr 34)

Có lẽ “chim yếm đỏ” là do câu dân ca Pháp “Rouge gorge/ Rouge gorge”? mà Lê Đạt đã trích dẫn (tr. 34) như là động cơ của bài thơ Chim ức lửa:

Ôi con chim ức đỏ môi đòng

Thả đỏ đốt xứ đồng không anh nhớ

Một thoáng đào

nhen mấy độ hồng

(trang 34)

Khó mà nói rằng những ý thơ trên không có tương giao. Thậm chí, có khi là Đạt không dừng chữ yếm, người đọc vẫn thấy dải yếm trong bài Quan Họ (tr. 91):

Tóc trắng tầm xanh, qua cầu với gió

Đùi bãi ngô non / ngo ngó sông đầy

cây gạo già

lơi tình

lên hiệu đỏ

La lả cành

cởi thắm

để hoa bay

Ta thử làm một việc bạo tay: cởi thắm. Thay vào đó: cởi yếm. Hoa vẫn bay.

Hoặc thay vào: yếm thắm, Vẫn hoa bay.

***

Ở nước ngoài, hiếm khi chúng ta còn gặp kỷ niệm dải yếm, như trong câu văn mới đây của Mai Kim Ngọc, rất khiêu gợi:

Tuấn cởi khuy áo em, cởi dải yếm em. Em nghe Tuấn áp mặt vào ngực em, như trẻ sơ sinh áp mặt vào ngực mẹ tìm sữa. Mặt sông phẳng lặng mà em tưởng như con thuyền chao đảo, lửa như cháy trong ngực em (…). Như cùng một lúc, em đang làm vợ làm mẹ…”

(Báo Văn Học, California, số Xuân Ất Hợi 1995, tr. 121-122)

Hoặc trong thơ Trần Hồng Châu (bút danh của Nguyễn Khắc Hoạch, cựu khoa trưởng trường Văn Khoa, Sài Gòn), trong một thi tập xuất bản tại Mỹ, có câu:

Em là con gái mười thương

Yếm đào một dải mấy đường nhỏ thon

Thắt lưng hoa lý càng son

Bốn thân áo đẹp gạch non nhuộm màu

(Ước gì sông rộng một gang)

(Nửa Khuya Giấy Trắng, 1992 tr. 106)

Và cùng trong tập thơ ấy, ta lại được đọc:

Tôi lăn mình trên cỏ xanh non

Miệng ngậm nửa vành hoa tường vi

Ôi màu tím nhạt cyclamen của những quầng mắt bài thơ

Của áo ngủ Valisère rung rỉnh thủy triều trên mình em đại lục hoang vu…

(Giới hạn, s.đ.d. tr. 92)

Thơ, ý thơ và lời thơ cốt lõi ở tự do, xoáy sâu vào thời gian nhưng cũng trải rộng ra không gian. Đã đành là vậy, cuộc đời là vậy, nhưng chúng ta vẫn ái ngại cho tâm tình một Nguyễn Bính ngày xưa, khi cô gái “đi tỉnh về”:

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm. Em làm khổ tôi

Thị thành bôi nhọ em rồi

Nào đâu cái yếm mua hồi sang xuân

Mấy câu này là nguyên bản bài Chân Quê (1937) trong tập Tâm Hồn Tôi, do nhà Lê Cường in năm 1940. Những bản in sau này đã thay đổi lời và ý. Giấy trắng mực đen, ngày một ngày hai, còn thay đen đổi trắng, trách cứ chi cô gái quê chỉ mới ngấp nghé cài… khuy bấm.

Chuyện cái yếm là cuộc rong chơi dông dài ngày Tết, không nên lấy làm đề tài văn hóa, văn chương hệ trọng.

 Đặng Tiến

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm