TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nhà thơ Trần Hà Yên: “Viết cho trẻ con để thấy đời mình không sống mòn”

Nhà thơ Trần Hà Yên: “Viết cho trẻ con để thấy đời mình không sống mòn”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-10 13:29:03
mail facebook google pos stwis
1270 lượt xem

TỐNG PHƯỚC BẢO

Mãi đến khi chia tay nhau trong một đêm tối muộn của tháng 5, trên con đường mưa thưa người ngay khu trung tâm thành phố, giữa ánh đèn vàng vọt phảng phất vào gương mặt của Trần Hà Yên, tôi bất giác nhớ hai câu thơ của chị: “Phấn son vẫn rạng nét cười/ Yêu thương em vẫn rạng ngời mắt môi”.

Quả thực trong nét rạng rỡ của ngày hôm nay, tôi chẳng thể tưởng tượng một Trần Hà Yên đã kiên trì trong 10 năm qua để chiến đấu với căn bệnh ung thư. Và chính những tháng ngày ngỡ như tận cùng số phận, văn chương như một loại “biệt dược” giúp chị vững vàng đi tiếp cõi người còn lắm yêu thương này.

Tái sinh cuộc đời từ văn chương

Trần Hà Yên vốn dĩ quê quán ở Quảng Ngãi, nhưng lại sinh ra trên đất Hà Nội, tốt nghiệp Sư phạm Quy Nhơn, đi dạy tận Phú Yên và giờ sống ở TP Hồ Chí Minh. Chỉ nội cái khoảng chằng chịt những tháng năm ruổi rong đời mình ở nhiều vùng đất cũng đủ thấy một Trần Hà Yên mang sẵn trên mình nhiều nỗi gian truân. Nhưng chẳng hề gì, chị cùng ông xã, cũng là một giáo viên luôn thắp lên trong nhau những ngọn lửa đủ ấm để cùng đi qua bao giông bão. Mái ấm của chị đong đầy yêu thương.

Tôi vẫn nói với chị, trong phần số của chị, có rủi và may. Thăng trầm đi qua, tưởng đã đến lúc với tay hái trái ngọt của đời mình thì một lần nữa, chị đối diện với cửa tử. Ranh giới mỏng manh đó, may mắn chị có gia đình luôn cạnh bên, hết mực chăm lo và kiên trì cùng chị.

Phụ nữ, mà nhất là phụ nữ quàng vào thân mình cái nghiệp văn chương, kỳ thực mấy ai được như chị. Những trang bản thảo đầu tiên luôn được chính chồng chị đọc trước nhất. Thậm chí, những khi đi làm về muộn, anh tự chọn cách giải trí là ngồi vào máy tính, và tìm các tác phẩm mới viết của chị để đọc. Anh không phải là người viết, nhưng trước nhất anh yêu chị nên yêu luôn cả câu chữ của chị. Đó là phước hạnh của mối lương duyên mà trời ban cho chị. Vậy nên, sóng gió bão giông phủ xuống đời chị 10 năm nay, luôn có vợ chồng đồng lòng tát cạn.

Trần Hà Yên vốn dĩ sống và viết lặng thầm, nhưng bền bỉ so với nhiều bạn văn phía Nam. Đều đặn in sách và góp mặt trong các báo in, cả văn lẫn thơ. Nhưng có lẽ, với thơ mới là cốt lõi của văn chương chị. Chính thơ Trần Hà Yên mới dẫn dắt tôi tìm đến chị bởi những câu thơ đau đáu phận người, những câu thơ dạt dào xúc cảm, những câu thơ đọc lên và cay xè sống mũi ngay tức thì: “Ở nơi đây/ chỉ có những cái đầu trọc lóc/ vợ thương chồng gói tròn tiếng khóc/ mẹ thương con chiếu chăn lăn lóc/ lặng lẽ nhìn nhau/ đôi mắt đỏ/ rưng rưng”. Khi đọc bài thơ “Ranh giới” mà chị làm trong những tháng ngày điều trị căn bệnh ung thư, tôi tự hỏi những ám ảnh, những đọa đày, cả những chấp chới sinh tử, người phụ nữ này chỉ có thơ để gói ghém tấc dạ và vỗ về chính mình trong cuộc chiến giành lấy quyền được sống.

Hơn 10 năm trước, khi nghe bác sĩ nói mình bị ung thư, chị khụy xuống, nắm chặt tay vịn cầu thang và nhất quyết trả lời bác sĩ: “Tôi phải sống”. Ngay thời khắc đối diện án tử chị chỉ nghĩ đến chồng, đến hai người con và cuộc đời này còn nhiều thứ để mình tiếp tục. Tế bào ung thư di căn, chị đối diện với ca nạo hạch sâu trong hố chậu, vậy mà vẫn phải tập đi, hai người con dìu mẹ từng bước đau đớn. Trên đường về sau ca xạ trị, chị sợ những ảnh hưởng từ thuốc khiến mình ói hoặc ngất xỉu nên ngồi sau xe con chị chọn hát. Hát tất cả những bài hát trong đầu mình chợt nhớ để quên đi cái đau. Để thấy mình vẫn còn sống như chính mình mong muốn. Và văn chương nảy lên trong chị những câu từ, thể như đúng mùa hoa nở, đúng thời khắc cần phải có.

Những khoảng nghỉ một mình với căn nhà trống khi chồng con đi làm, câu chữ từ những cảm xúc chợt nảy lên trong đầu, và chị chọn ghi lại, cùng với bản năng văn chương tự khắc những dòng nguệch ngoạc đầu tiên thành thơ. Nếu tin văn chương cũng có thân phận thì chính thời khắc sinh tử, văn chương gá thân vào chị, cộng sinh với chị để cùng tái sinh. Và Trần Hà Yên điềm tĩnh dùng văn chương để an ổn đi qua chuỗi hành trình 10 năm kiên cường.


Một số tác phẩm của Trần Hà Yên

Xác tín mình bằng thơ thiếu nhi

Cho đến bây giờ chị đã có 8 đầu sách được in ấn, và mới nhất chính là tập thơ thiếu nhi “Từ vườn hoa nhà em” (NXB Văn học). Từ những câu chuyện chị ghi lại trên trang mạng cá nhân, ban đầu chỉ để lưu lại chút gì đó cho chồng con lỡ chị không đi trọn hành trình cuộc đời, cho đến lúc nhận được sự ủng hộ của chính người đọc, Trần Hà Yên mới tự tin dấn thân sâu cùng văn chương.

Thơ chị luôn mạnh về cảm xúc, và giàu thông điệp yêu thương. Dẫu trong mỗi bài thơ luôn lấp ló những khoảng buồn, những trăn trở và những chông chênh của thân phận con người hữu hạn trong cõi đời vô hạn này. Nhưng, riêng mảng thơ thiếu nhi, Trần Hà Yên như đắm mình vào sự tươi non và trong trẻo một cách hòa hợp rất nhuần nhuyễn. Có lẽ chính những đứa cháu nhỏ hằng ngày hiện hữu trong trái tim chị, đã khiến thơ thiếu nhi của Trần Hà Yên vô cùng tự nhiên.

Trần Hà Yên bắt đầu đến với thơ thiếu nhi chỉ hai năm nay, những lần từ ô cửa nhà mình nhìn đám cháu sáng sớm tíu tít chào bà rồi đi học, hoặc mỗi chiều hôm cháu ùa vào lòng bi bô kể chuyện ở trường, và cả những ngày nghỉ cùng cháu dạo chơi khắp phố phường khiến chị được đắm mình vào không gian trẻ thơ, cảm xúc dẫn dắt lúc nào chẳng hay. Có khi chị hóa thành hoa cỏ, ong bướm, cũng có khi là chính lời đứa cháu dệt thành câu chữ. Linh hoạt trong cách chọn góc nhìn, và ứng biến trong câu chữ của mình.

Thơ thiếu nhi của Trần Hà Yên vì thế rất đỗi trong trẻo và gần gũi, hiện đại như: “Vội gì lo ăn sáng/ Cùng bố mẹ tập bơi/ Sau này có đi chơi/ Không sợ mình đuối nước”. Hay như câu chuyện hai đứa bé chạy chơi quanh nhà và làm vỡ cái bình, Trần Hà Yên thu vào tầm mắt và rồi thơ cũng tinh nghịch như chính lời trẻ con: “Chiều về thấy vậy bố hỏi/ Sao bình bị vỡ thế này/ Anh hai ngập ngừng nhìn bố/ Tí thưa: tại nó bị say”. Phải quan sát và phải hòa mình vào với trẻ nhỏ thì mới hiểu được nét tinh nghịch lẫn vô tư của các con. Thơ thiếu nhi cần thiết là sự đồng điệu tâm hồn thì mới có thể khiến độc giả nhí thích thú, bởi chính các con trẻ thấy mình trong từng câu chữ. May mắn thay, ở Trần Hà Yên có được điểm này.

Hơn 40 bài thơ nhỏ gọn, xinh xắn trong tập thơ là những câu chuyện ghi lại cảm xúc cũng như cuộc sống hằng ngày của trẻ con, từ đó góc nhìn của Trần Hà Yên nở ra những điều giản dị thân thuộc và cảm xúc tươi mới, non xanh nhưng đầy những yêu thương mà chính trẻ nhỏ mang đến cho người lớn.

Lan rộng ra hơn, đó là tinh thần lạc quan và niềm tin vào tương lai cho chính chúng ta từ việc hằng ngày được tắm tưới tâm hồn bởi sự trong trẻo của trẻ nhỏ. Tôi tin đây chính là dụng ý của Trần Hà Yên khi tìm đến với thơ thiếu nhi, không chỉ là thể nghiệm cho nghề viết mà là sự xác tín của hành trình văn chương đóng dấu tên mình. Bởi khi tôi hỏi vì sao chọn thơ thiếu nhi trong khi trải nghiệm sống của chị chính là mảng đề tài mà chẳng mấy ai có được. Câu chuyện đời chị vốn dĩ đã là mảnh đất màu mỡ nhiều vấn đề để khai thác ra trăm ngàn chất liệu cho sáng tác. Trần Hà Yên lẳng lặng đôi phút rồi thủ thỉ những lúc viết cho trẻ con chị thấy đời mình không sống mòn.

Trong cơn mưa lất phất của tháng 5, chồng chị chào tôi và lại dắt tay người vợ đứng nép vào mái hiên của quán cà phê và chờ xe. Khoảnh khắc đó, tôi tin chị đã sống một cuộc đời trọn vẹn của yêu thương, của cho và nhận, của một số phận gá mình cùng văn chương. Quãng đường về, tôi thả lòng mình cùng hai vế câu mà chị đã trả lời cho tôi, trẻ con và không sống mòn. Thiếu nhi như những mầm non, đó là tương lai, và chí ít nhìn các con, quả thật chúng ta thấy đời này không có điều gì để phải sống mòn.

 Nguồn: VNCA

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm