TIN TỨC

Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-10 11:35:15
mail facebook google pos stwis
2028 lượt xem

Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. Sông vẫn chảy đời sông của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.

Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.

 

                Đất có Thổ công…

 

Ngày tôi còn nhỏ, mỗi kỳ giỗ chạp, ngoài việc cúng ông bà, cúng bậc có ngày kỵ, ở quê tôi còn có mâm cúng đất. Cha tôi nói rằng, đất này ngày xưa thuộc người Hời (người Chăm Pa), qua bao li loạn đổi thay nên các hồn ma không nơi nương tựa, không ai thờ cúng, “muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi” (Chế Lan Viên). Cúng đất, lễ Tạ thổ kỳ yên trước là tri ân các bậc tiền nhân mở đất lập làng, các vị thổ địa, thổ công, thần hoàng làng; ngoài ra còn thờ cúng các thần vị cai quản đất đai, tổ tiên tộc người Chăm. Lễ vật dâng cúng bao giờ cũng dành phần riêng cho vong linh Chăm, dù rất khiêm tốn nhưng đặc trưng và thành kính.

Ảnh minh họa

Chăm Pa là một quốc gia cổ từng tồn tại từ năm 192 đến năm 1832. Cương vực của Chăm Pa xưa chủ yếu là vùng duyên hải Trung Bộ, lúc mở rộng nhất trải dài từ Hoành Sơn (Đèo Ngang, Quảng Bình) đến Bình Thuận ngày nay. Đến năm 1306 với việc công chúa nhà Trần là Huyền Trân kết duyên với Chế Mân - Vua Chăm Pa; Châu Ô, Châu Lý (sau đổi thành Châu Thuận, Châu Hóa) được làm vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân. Từ đó, vùng đất Quảng Trị hoàn toàn thuộc cương thổ của Đại Việt. Nhìn lại, trước khi có người Việt, người Chăm Pa đã có mặt và cai quản đất này ngót một thiên niên kỷ.

  A.Laborde, một học giả người Pháp khi nghiên cứu về những dấu tích lịch sử trên đất Quảng Trị những năm đầu thế kỷ XX đã viết rằng: “Nếu người ta muốn trở về với nguồn gốc lịch sử, thời cổ xưa của Quảng Trị đáng được đặc biệt chú ý, bởi vì người ta thấy ở đất này nhiều dấu tích của người Chăm đã ở đây trước kia và để lại những di tích cổ thật kỳ lạ…” (1). Những di tích Chăm Pa ở Quảng Trị quả là những di tích cổ thật kỳ lạ! Ở rải rác nhiều nơi trong tỉnh Quảng Trị người ta “đã phát hiện những phế tích của đền đài, các tượng đá nhỏ, các bàn hiến tế bằng cẩm thạch, tượng Apsaras, tượng Garudas, các Linga và một số tàn tích khác của nền nghệ thuật Chàm” (2). Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã khảo sát và xác định được gần 30 phế tích thuộc dạng đền tháp: Hà Trung (xã Gio Châu, huyện Gio Linh); Kim Đâu (xã Cam An), Định Xá, Lâm Lang (xã Cam Hiếu) thuộc huyện Cam Lộ; Trâm Lý (xã Hải Quy), Trà Lộc (xã Hải Xuân), Câu Hoan (xã Hải Thiện) thuộc huyện Hải Lăng; Dương Lệ, Võ Thuận (xã Triệu Thuận), Trà Liên (xã Triệu Giang), Bích La (xã Triệu Đông) thuộc huyện Triệu Phong… Một số nơi khác như An Lộng, Bích Khê, Đại Hào, Liêm Công được các nhà nghiên cứu người Pháp lưu ý đầu thế kỷ XX nhưng nay không còn dấu vết gì. Có thể thấy rằng, ở một địa bàn không lấy gì làm rộng lớn như Quảng Trị thì việc tồn lưu một số lượng đền tháp như thế, quả thật xứng đáng để gọi là “xứ tháp”. “Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng/ Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh” (Chế Lan Viên).

Các địa điểm thuộc di tích đền tháp Chăm Pa ở Quảng Trị qua các dấu tích hiện còn có thể thấy đó là những trung tâm tôn giáo của mỗi vùng trong toàn bộ địa bàn: Hà Trung- ngôi đền Indrakantesvara của Hoàng hậu Tribhuvanadevi và An Xá- trung tâm tôn giáo của vùng châu Ma Linh; Trương Xá (thượng nguồn sông Hiếu) và Dương Lệ- trung tâm tôn giáo của vùng bắc châu Ô; Câu Hoan- trung tâm tôn giáo của vùng nam châu Ô. Các khu đền tháp, phần lớn đều lấy biểu tượng của bộ sinh thực khí Linga – Yoni làm đối tượng thờ chính, đặt ở tháp trung tâm và vây quanh nó là từ ba đến bốn kalan trở lên. Ở khu tháp Dương Lệ, với những dấu vết hiện còn qua các cấu kiện kiến trúc, nền móng, nhất là kích thước to quá cỡ của bệ Yoni, có thể coi đây là một cụm tháp lớn hơn cả và hẳn là nó đã giữ vai trò như một thánh địa không chỉ của vùng bắc châu Ô xưa mà còn là cả một vùng khá rộng lớn thuộc vùng bắc Vương quốc Chăm Pa. Các đền tháp Chăm Pa ở Quảng Trị được xây dựng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XI.

Cùng với đền tháp, còn đây di chỉ về thành lũy của người Chăm Pa. Đó là Bến Lũy thuộc làng Cổ Lũy, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh và địa điểm nằm ở phía tây nam khu chợ Thuận thuộc làng Vệ Nghĩa, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu đều được xây dựng trên vùng đồng bằng ven biển, gần các con sông chính trong vùng là sông Bến Hải và sông Thạch Hãn, đặc biệt gần hai cửa biển: Cửa Tùng, Cửa Việt. Điều đó cho thấy, người Chăm với con mắt nhìn chiến lược về biển đã đặt các trung tâm chính trị, quân sự gần ngay với các cửa biển. “Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng/ Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành” (Chế Lan Viên).

Người Chăm Pa cổ đã làm hậu thế thán phục, kinh ngạc nhất là các công trình khai thác nước do người Chăm xây dựng, gồm nhiều thành phần cấu trúc phức tạp, liên hoàn, đa hình dạng, đa chức năng. Các công trình này nằm ven các triền đồi đất đỏ bazan hoặc ven các triền đồi cát vùng đồng bằng, ven biển và miền trung du. Hệ thống này bao gồm những công trình mang tính chất “dẫn thủy nhập điền” có vai trò thủy lợi cao, được nhân dân địa phương quen gọi là giếng: giếng Ba Vòi, giếng Mài Rạ ở vùng đất đỏ bazan Gio An, Gio Sơn; giếng Đắn, giếng Trạng làng Liêm Công, xã Vĩnh Thành; giếng Chùa, giếng Đá ở vùng cồn cát đông Gio Linh (xã Gio Mỹ). Chỉ riêng thôn Mai Lộc 2 (xã Cam Chính, huyện Cam Lộ) qua thống kê đã có 9 giếng cổ Chăm như giếng Cây Bàng, giếng Cây Thị. Độc đáo nhất là hệ thống giếng Chăm ở vùng Gio An (huyện Gio Linh), có 14 loại giếng cổ, hình thành một hệ thống giếng gần như liền kề: giếng Côi, giếng Dưới, giếng Nam, giếng Nữ… Các giếng Chăm đã trải qua hàng chục thế kỷ mà hiện nay vẫn còn dùng được, nguồn nước đang phục vụ cho người dân sinh hoạt, gieo trồng cây cối.

Ở làng An Bình của tôi, vẫn còn đó những địa danh: Cồn Chăm, Cồn Giàng, Cồn Đôống… với những giai thoại về người Hời. Ông bà ta xưa quan niệm: “Đất có Thổ công, sông có Hà bá”, cúng đất là để cầu nguyện âm siêu, dương thái, phần âm có yên ổn thì người dương mới an yên và có an cư thì mới lạc nghiệp. Sinh thời, cha tôi thường nói: người xưa tuy khuất mặt khuất mày nhưng luôn hiện diện bên ta, chỉ có chúng ta là không nhìn thấy. Bởi vậy, phải biết ơn các bậc tiền nhân đã xây dựng nên mảnh đất này. Đất Mẹ là cội nguồn của sự sống, phải biết kính trọng và tôn thờ!

………………………….

(1): A. Laborde. La province4 de Quang Tri. B.A.V.H, 1921.

(2): Theo “Nguồn gốc làng Câu Nhi”, trong cuốn “Văn hóa dân gian Quảng Trị”, Sở Văn hóa- Thông tin và Thư viện Quảng Trị xuất bản, 1992, tr.36.

 

Nguyễn Linh Giang

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm