TIN TỨC

Đêm trở giấc của nhà thơ Lê Viết Hòa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-09 06:10:38
mail facebook google pos stwis
1086 lượt xem

LỆ HỒNG

 

Đêm
 

Đêm - nghe gió hát bên thềm

Giọt mưa gõ nhịp cho mềm lời ru

Rằng

vừa trở giấc tàn thu

Đã nghe vàng lá xa mù

trùng khơi

 

Đêm

nghe nhịp phách ru đời

Điệu chầu văn

sóng

chơi vơi mạn thuyền

Rằng

trăn trở giấc tàn đêm

Đã nghe hồn thoáng mông mênh ngút ngàn

 

Đêm

nghe nhịp bước lang thang

Lập lòe đốm lửa

hoa đăng

tiễn hồn

Răng

kinh cầu nguyện vô ngôn

Đã nghe xa xót mạch nguồn tang thương

 

Đêm

nghe rụng cánh tà dương

Bên bờ ảo giác

khói sương vật vờ

Rằng

ru khúc hát ngu ngơ

Đã nghe dư lệ khóc hờ tuổi xuân

 

Đêm

nghe nhịp bước xoay vần

Đóa sen hông nở giữa trần thị phi

Rằng

người

rồi cũng

về - đi

Trái tim nhịp đập

vô vi

đóa thiền…

                                        (Rút từ tập thơ “Kiếm thơ trong thiền”)

 

Không phải đến bây giờ nhà thơ Lê Viết Hòa mới tìm thấy thơ trong thiền. Người con đất kinh thành hẳn đã được ru bằng những điệu hò Huế thương, được ôm ấp trong từng lớp sóng vỗ mạn thuyền lách cách. Thơ thức dậy và nuôi dưỡng hồn anh để anh có thể tận tâm làm một thầy thuốc yêu nghề, một người cha yêu con vô điều kiện, và để có thể sống tháng ngày an yên cùng niềm đam mê với văn chương.

Đôi khi có những đêm trở giấc, anh lặng mình mơ về một khoảng trời xanh nào đó, một dáng huyền bồng bềnh xa ngái? suối nguồn yêu lại quay về réo rắc cung đàn.

“Đêm - nghe gió hát bên thềm

Giọt mưa gõ nhịp cho mềm lời ru”

‘Đêm’ như người bạn tri âm không bao giờ ngủ. Này, có nghe gió hát không? gần lắm mà hoang vu lắm. Thế nên mưa rơi tí tách đi, chỉ gió thôi không đủ để vuốt ve trái tim nứt nẻ. Vì rằng;

“Rằng

vừa trở giấc tàn thu

Đã nghe vàng lá xa mù

trùng khơi”

Lại thủ thỉ ‘Rằng’ như thể đêm nghe và hiểu sóng lòng anh nhức nhối. Lời tự trần cho cõi riêng heo hút lại nở ra, lại nghe trùng khơi sóng dội về. Tâm nghe tiếng cựa mình của lá, tiếng răng rắc vỡ vụn chiếc lá vàng, hay các giác quan đã già cội. Thu lạnh trú ngụ trong anh như nhắc nhớ mùa vắng vẫn còn đây, dẫu giấc tàn thu có làm tim anh hôi hổi.

“Đêm

nghe nhịp phách ru đời

Điệu chầu văn

sóng

chơi vơi mạn thuyền”

Đêm từng đêm khắc khoải, không gian đầy gió trở, nên đời mãi đong đưa từng nhịp phách. Nhà thơ đã gọi đêm như một phản xạ có điều kiện, một thói quen chẳng hề mong muốn. Sóng thôi đừng vỗ điệu chầu văn, chiếc thuyền độc mộc lặng tờ dưới vành trăng mỏng sẽ ai oán lắm! Nỗi cô đơn lại sẽ luồn vào mộng, anh không thể tự mình thoát bay. Giữa mênh mông sương trắng, anh chới với nghe hồn tương tư.

“Rằng

trăn trở giấc tàn đêm

Đã nghe hồn thoáng mông mênh ngút ngàn”

Ngẫm mình cũng từng có những đêm lay lắt, may mắn mộng vàng ru lại giấc mơ ngoan. Thế nên, để có thể hiểu được điệp từ lập lại “Đêm và Rằng” của nhà thơ phải là những đêm trắng hoang hoải, cả nỗi sợ hãi bủa vây.

“Đêm

nghe nhịp bước lang thang

Lập lòe đốm lửa

hoa đăng

tiễn hồn

Rằng

kinh cầu nguyện vô ngôn

Đã nghe xa xót mạch nguồn tang thương”

Không! Không phải đom đóm đùa giỡn với anh, không phải những vì sao mai lấp lóa xoa dịu bóng anh, mà là hoa đăng tiễn hồn theo đốm lửa lập lòe. Thật bàng hoàng, nỗi ám ảnh vàng lên đôi mắt. Hình ảnh ngắc ngứ lắp đầy cả mạch thơ làm ta bối rối, cảm thương! Âm vọng từ lời nguyện cầu nấc nghẹn không thể thoát bay, thì sao anh có thể bước được rồi lang thang mãi trong vùng khói trắng.

Chúng ta ít nhiều đều đi qua mất mát. Có người nuốt nước mắt vào lòng, ém nỗi đau vào một góc trái tim và lăn lê với bóng, hay mạnh mẽ mỉm cười vì ta còn hiện hữu giữa trời xanh. Mỗi cảm xúc đi qua đời ta đều là dấu son, tuy có buốt giá hoặc bỏng cháy thì những xót xa sẽ thêu hoa lên dĩ vãng. Với nhà thơ, có đớn đau nhưng ký ức đọng lại đã là một thời hạnh phúc. Vì quá hạnh phúc nên sẽ đau lâu…? Phải chăng thấp thoáng đâu đấy còn là những mảnh băng cô độc, nức vỡ vì tâm hồn giá lạnh. Nhà thơ cảm được mạch thở của đêm không chỉ bằng tình yêu đôi lứa mà bằng cả trái tim yêu với con người và đất.

“Đêm

nghe rụng cánh tà dương

Bên bờ ảo giác

khói sương vật vờ

                              Rằng

ru khúc hát ngu ngơ

Đã nghe dư lệ khóc hờ tuổi xuân”

Cả hai khổ thơ được miêu tả như bức tranh thu ẩn vào đời anh, và đợi hoàng hôn phủ tím vòm tây hồn tranh mới thoát ra hiện về. Thế sao anh đã nghe dư lệ thầm thì! Có vẻ ngay cả khi bình minh rực sáng trời đông thì khói hương lãng bãng vẫn bủa vây muôn trùng. Lời thơ ví giặm như tưởng niệm tuổi xuân phai, viên xá lợi đen mãi ngủ yên cùng năm tháng. Xa xót quá một đời yêu trong thinh lặng. Nhà thơ phơi lòng ‘ta và người’ cùng đêm cay xé, xúc cảm có vượt ngưỡng thì ông vẫn gượng.

                    “Đêm

nghe nhịp bước xoay vần

Đóa sen hồng nở giữa trần thị phi”

Đôi mắt nâu khô xuyên suốt cả miên trường, bởi lẽ ánh sáng được soi thấu từ khát khao mầm xanh cuộc sống, vầng dương lại thong dong đùa bỡn với mây mù. Song, để nỗi lòng mắc cạn có được cứu rỗi, thì cần lắm những đóa sen đời nở sắc long lanh. Giữa một vùng đầm lầy dù nắng mưa có làm nước trong vẩn đục, hương thiền vẫn tỏa ngát giữa trời trăng. Hiểu được sự sống đẹp và cũng vô thường nên nhà thơ trân quý cả những đêm mù hoang hoải.

“Rằng

người

rồi cũng

về - đi

Trái tim nhịp đập

vô vi

đóa thiền…”

Từ vùng khói lam trong ánh mắt vô vọng đến được sự vô vi trong cõi người là con đường không điểm kết. Ai có thể và ai ngần ngừ quay bước! Nhà thơ đang cần mẫn làm một lữ hành về phương đông chăng? Với rất nhiều tác phẩm được ra đời như thơ “Dạ khúc cội nguồn - Gieo mùa lục bát - Chảy qua đời tôi…”. Cùng các truyện, ký, tùy bút như: “Ám thị tuổi thơ - The Childhood Obsession - Những dòng tâm sự và mười sáu tình khúc không tên của nhà thơ Lê Viết Hòa và nhạc sĩ Vũ Thành An…”. Có lẽ đến một lúc nào đó, giữa trần thị phi một đóa sen khô nhô lên từ đất cỗi và bung cánh trong nắng xuân vàng.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm