TIN TỨC

Đọc sách cùng bạn: Người đàn bà lưu đày trong linh hồn chữ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-19 17:46:01
mail facebook google pos stwis
2300 lượt xem

PHẠM XUÂN NGUYÊN

Chào bạn ta gặp lại nhau. Hôm nay, tôi mời bạn đọc tập thơ "Mây mưa với chữ" của nhà thơ Trần Mai Hường.

Tên tập thơ là lấy từ bài thơ bốn câu này:

Chớm đêm vấp lối địa đàng

Gặp E-va với A-đam ngọc ngà

Thưa rằng-em-phận-hồng hoa

Trót mây mưa với chữ mà hoang thai. (tr. 38)

Và quả là đi vào tập thơ riêng thứ năm này của Mai Hường là bước chân vào một địa đàng tình, địa đàng thơ, địa đàng chữ. Nhà thơ không để cho Anh và tôi và bạn được yên trong cơn lốc xoáy của tình yêu và chữ nghĩa. Cuống quít vội vàng đam mê vồ vập nóng bỏng lạnh lùng mọi trạng thái của một cuộc mây mưa hiểu theo nghĩa Tình và Thơ.

Tình của em "cô nàng có trái tim xốp như nắng vỡ" thấy mình điên điên dở hơi nhiều khi nên "dám liều thế chấp" để được đầy anh. Tình của em "nhông nhao điên cuồng" nên "muốn hư đến dại người" cùng anh. Tình của em "còn nguyên nếp" để "nhon nhặt yêu thương" với anh. Tình của em có "nghiệm riêng" muốn được "giải mã mình" cho anh. Tình của em "lạc mùa anh" nên "như thú dữ nhớ rừng" nhớ anh. Đủ mọi cung bậc Tình táo bạo hồn nhiên được nhà thơ đem gửi vào những con chữ hồn nhiên táo bạo.

Chữ trong thơ Mai Hường đầy run rẩy rạo rực đắm say lõa thể vần vũ cũng như người. Cũng như người, chữ của nhà thơ biết yêu biết đau biết buồn biết giận thổn thức cùng tâm trạng. Chữ như cũng vì người mà háo hức, gấp gáp, xoáy cuộn lao vào cuộc Tình. Và người vì thế cũng bị chữ dẫn dụ, mê hoặc. Chữ cũng bị người giày vò làm đau và người thấy mình có lỗi đã bắt chữ phải đau như mình, đau cho mình. Này là "linh hồn chữ thì thầm dẫn em xa cõi thực". Này là "Cánh đồng chữ quặn mình sinh nở". Này là "chữ có lỗi gì mà đau đớn thốn tim". Này là "Bơi trong sóng chữ biết tìm đâu phao". Chữ đấy cũng là người đấy. Cả tập thơ là một sự "ăm ắp nỗi đàn bà/ tự lưu đày trong linh hồn chữ".

Đúng là người đàn bà "mây mưa với chữ" để đành ru cõi lòng mình. Mà cuộc mây mưa đó chỉ để "hoang thai". Sao lại thế? Vì đó chỉ là cuộc tưởng tượng, cuộc không đối tượng, cuộc tình với chữ để nói cuộc tình với người. "Đêm – ta và chữ hoang ngôn". Nhưng hiểu về mặt văn chương, cuộc mây mưa với chữ lại là một thái độ nghệ thuật. Ấy là nói cái sự không gìn giữ, không chừng mực, không đoan trang của cuộc thơ như cuộc yêu thật. Đắm đuối ào ạt mạnh bạo, thơ Trần Mai Hương nói chung và trong tập này nói riêng là vậy. Thơ đó là thơ dám đi hoang với chính mình và với thơ. Chữ "trót" tác giả đặt trong câu thơ này không phải chỉ như một sự lầm lỡ, chấp nhận theo nghĩa thông thường, mà còn là một thái độ chủ động chấp nhận thách thức số phận. Cả người và thơ. Tên bài thơ "Trót em" là vì thế.

Nhưng cũng vì thế mà ẩn đằng sau những tình những chữ tưởng là điên cuồng bạo liệt đó trong thơ là một nỗi buồn thăm thẳm cô đơn. Mây mưa với chữ cũng là chuyện con người. Mở đầu tập thơ nhà thơ đã đảo tên mình Trần Mai Hường thành Mai Hương Trần viết thành thơ như một lời tự giới thiệu rất thật:

Nắng thì mê – gió thì say

Mà thơ thì mãi đọa đày duyên phơi

Là hường thương cánh môi lơi

Là trần xin nhé hẹn đời mai sau. (tr. 5)

Bài tiếp ngay sau nhà thơ viết cho mình trong ngày sinh. "Cứ tự mình nguệch ngoạc/ Vẽ đa đoan cho đầy/ Tháng mười ngày mười chín/ Sao chỉ mình ta say". Cuối cùng vẫn chỉ có chữ bên mình thôi. "Ta lại đành xóc chữ/ Cộng trừ những được thua".

 

Như vậy chữ, hiểu rộng ra là thơ, đã là bạn đồng hành, là người tình của Trần Mai Hường đi qua những tháng ngày không bình lặng của đời mình. "Để thơ cuồng gọi chữ". Nhà thơ giao kết "mây mưa với chữ" để sinh hạ thơ, đó không phải "hoang thai" mà là đứa con chữ của người thơ sinh ra ở quê lụa Hà Tây nay sống ở Sài Gòn dâng tặng cho đời.

Hẹn bạn lần tới với một cuốn sách mới khác!

Hà Nội, 19/10/2021.
Nguồn:
https://danviet.vn/.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm