TIN TỨC

Đọc thơ Nguyên Hùng qua 100 ca khúc

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2024-09-01 21:22:57
mail facebook google pos stwis
1646 lượt xem

HUỆ HƯƠNG HOÀNG

Trăm khúc hát một chữ duyên” là tuyển tập những bài thơ của Nguyên Hùng được phổ thành ca khúc. Cầm cuốn sách anh gửi tặng trên tay, tôi mỉm cười: ngày xưa mà có được cuốn sách như này là quý lắm đây. Vì ngày đó đi dạy, cứ mỗi lần nhà trường tổ chức hội diễn văn nghệ, là cô trò lại đi tìm một cuốn sách nhạc để tìm bài hát, rồi tập luyện cả tháng. Hài hước là sách nhạc ngày xưa, chỉ in lời bài hát mà không có bản nhạc (phù hợp với thế hệ chúng tôi, những người yêu nhạc nhưng không được học lý thuyết về nhạc, nên có bản nhạc cũng chả đọc được. Các bài hát chủ yếu là truyền miệng). 

Còn cuốn sách của Nguyên Hùng, với 81 bản nhạc (chọn lọc từ hơn 110 ca khúc phổ thơ), được in ngay ngắn bên cạnh những bài thơ, xinh xắn nhẹ nhàng, dễ thương. Tôi chợt nghĩ, đời sống thời hiện đại cũng sung sướng thật, đời sống vật chất, tinh thần đều đầy đủ. 

Nhà thơ Nguyên Hùng gọi trăm khúc hát từ thơ mình là duyên. Đúng thật. Là cái duyên đằm thắm của anh với thơ, với ca, với bạn bè văn nghệ sĩ, và với cuộc đời. Tôi cũng quen anh bởi cái duyên với ca khúc của anh, khi tôi nghe bài hát “Bến xưa”, là ca khúc của Lê An Tuyên phổ nhạc từ thơ anh. Một tình yêu quê, yêu con sông quê hương, yêu đời, yêu người dào dạt dâng lên trong lòng tôi khi nghe ca khúc ấy. Từ đó biết anh, và biết nữ nhạc sĩ Lê An Tuyên, rồi kết gắn, thành bạn bè thân thiết.

Sự giản dị và giàu tính nhạc

Thơ Nguyên Hùng giản dị và giàu nhạc tính. Và bởi vậy, khi những câu từ bay lên cùng nốt nhạc, ta mới thấy hết cái đẹp của nó: sự trong sáng của những cảm xúc và suy tư, lấp lánh như dưới ánh mặt trời: 

Ta sinh ra từ một dòng sông/ Sông dài rộng con đò ngang thì bé/ Đạn rít bom gầm cày nát thời thơ trẻ/ Khói lửa vừa tan mỗi đứa một phương trời/…/Ơi dòng sông ngọt lịm điệu đò đưa/ Ơi dòng sông mặn mòi câu ví giặm/ Giá mỗi chiều được về quê ngụp lặn/ ” (trích “Gửi dòng sông câu ví”). 

Bài thơ này được nhạc sĩ Hữu Xuân phổ nhạc với tên ca khúc là “Gửi dòng sông”, hầu như để nguyên lời thơ, nghe thật đằm thắm da diết. Với nhạc sĩ Võ Xuân Hùng lại gợi một cảm xúc mênh mang, mênh mang dòng sông, mênh mang tình người. Nhưng phải nói, qua âm nhạc của Lê An Tuyên, với âm hưởng ví giặm và lời thơ đã được thay đổi ít nhiều, tạo nên trong lòng người nghe một xúc cảm bùi ngùi khó tả, một nỗi nhớ thăm thẳm không nguôi: “À ơi, chiều xưa trên bến dưới thuyền. Ai đợi ai lúc trăng soi mạn thuyền. Trăng soi đôi bờ dòng sông xanh. Dòng sông ấy, tuổi thơ ấy còn đây trong giấc mơ em. Hỡi dòng sông quê giữ bao kỷ niệm buồn vui”. Vì thế, khi nghe bài hát lần đầu, tôi đã phải gọi điện cho chị bạn trong Nha Trang, hỏi cho ra ai là tác giả của tuyệt phẩm này.       


Bìa sách “Trăm khúc hát một chữ duyên” của Nguyên Hùng

Thơ Nguyên Hùng có duyên với nhiều nhạc sĩ. Chẳng thế mà có hơn trăm bài thơ của anh được phổ nhạc, trong đó có những bài được nhiều nhạc sĩ cùng phổ. Nhưng có lẽ Lê An Tuyên là người phổ nhạc thơ anh thành công nhất. Có lẽ nhờ cái duyên đồng hương, đồng ly quê nên đồng cảm. Vả lại, với trường cảm xúc phong phú nữ tính, âm nhạc Lê An Tuyên bổ sung cho cái chất nam tính hơi khô cứng của Nguyên Hùng. Một trong số đó là cặp bài thơ “Biển và em” và “Cửa Hội” được Lê An Tuyên phổ thành ca khúc “Sóng không từ biển”, với phong cách âm nhạc hiện đại, được rất nhiều ca sĩ nổi tiếng hát.   

“Tuổi thơ anh trên sóng/ Nên say hoài biển xanh/ Biến đưa ngàn cánh võng/ Ru bồng bềnh, bồng bềnh tuổi thơ”.       

Tôi cho rằng đây là một trong những ca khúc về biển hay nhất, nó gợi cái mênh mang và dạt dào của biển, mênh mang và dạt dào của tình yêu tuổi trẻ. 

Nguyên Hùng thường “vẽ” bạn bè văn chương bằng những bài thơ chứa chan tình yêu mến. Một số trong đó được các nhạc sĩ phổ thành những ca khúc. “Trôi giữa cõi thiền” là bài thơ viết tặng nhà thơ Nguyễn Lê Trung, mà nét họa chính là những tác phẩm của nhà thơ được nhắc tên, làm nên một bức chân dung rất đỗi gây xúc động, nhất là với những ai đã từng quen biết ông: 

“Giá như ngày ấy đừng gàn/ Giờ đâu phải tiếc giọt thầm tuổi hoa/ Lớn lên thiếu vắng tình cha/ Hồn sông trầm tích hồn thơ lắng đằm/ Mẹ đi… chấp chới sông Lam/ Cánh cò một thủa xa xăm cuối trời…” 

Với bài thơ này, nhạc sĩ Đỗ Tiến Lập đã phổ thành ca khúc mang âm hưởng của ca trù và đậm chất thiền. Qua giọng ca của ca sĩ Quế Thương, người nghe cảm thấy như những thanh âm cứ xoáy sâu vào tâm hồn mình, gợi liên tưởng về một nhân vật mang nặng nỗi đau thời cuộc và số phận, cũng mang nét tính cách quật cường như dòng sông dữ dội của quê hương.

Nhạc sĩ Đỗ Tiến Lập cũng là người phổ nhạc nhiều cho thơ Nguyên Hùng, và tôi cho rằng hầu hết những ca khúc đó đều thành công, nâng được hồn cốt của thơ Nguyên Hùng lên một tầng nấc của thăng hoa. 

Lòng trắc ẩn và tình yêu quê hương

Nguyên Hùng viết nhiều về quê hương. Những bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu đối với chốn quê, nơi cửa sông mênh mang nước và trời gặp gỡ, nơi ký ức về cha về mẹ lam lũ tần tảo trên bến sông, và tuổi thơ như những con còng gió nghịch ngợm bé nhỏ trước cuộc đời. Và tình yêu đó đã chạm đến rất nhiều trái tim của các nhạc sĩ, để họ đồng cảm và viết nên những cánh diều thanh âm chuyên chở câu chữ của anh. Tôi đã nghe một loạt những ca khúc trong đây, thấy hầu hết đều đã được các ca sĩ hát lên, và hầu hết đều rất “đi vào lòng người”. 

“Cha là con của biển khơi/ Thay ông mất sớm, một đời nắng mưa/ … / Thương cha đi sớm về khuya/ Qua bom qua bão mang về mừng vui…” (trích “Nhớ cha”)

“Chiều Cửa Lò chúng mình bên nhau/ Bồng bềnh ẩn hiện đảo Lan Châu/ Thuyền ai nhè nhẹ duềnh con sóng/ Trăng cũng dần nghiêng phía dốc cầu/ Cửa Lò chiều chúng mình trôi đâu?” (trích “Chiều nghiêng Cửa Lò”). 

Chiến tranh cũng thường có mặt trong thơ của Nguyên Hùng, không chỉ là ký ức về một thời đạn bom. Có câu chuyện thú vị mà Nguyên Hùng kể với tôi. Đó là khi anh viết bài thơ “Chờ bố về”: 

“Bố đã bay rất xa/ Không hẹn ngày trở lại/ Mẹ chờ trong lệ nhòa/ … / Đợi bố về cùng ăn/ Mong bố về mua sữa” để tặng cho em bé con liệt sĩ phi công Trần Quang Khải, đã hy sinh trong một cuộc bay huấn luyện trên biển Cửa Lò. Nguyễn Ngọc Tiến, một nhạc sĩ của nhà thờ Thiên Chúa giáo, sống ở Mỹ đã phổ nhạc cho ca khúc này thành bài hát “Chờ cha về”. 

Ca khúc thực sự lay động lòng người vì nó mang âm hưởng của Âm nhạc Kitô giáo – thanh thoát và từ bi, nó cũng nhắc nhở cho người nghe về mối hiểm nguy: đừng tưởng chiến tranh đã xa rồi. Nó vẫn lẩn quất đâu đây quanh cuộc sống của con người, chực chờ gieo rắc thương đau cho chúng ta, cho thế hệ tương lai của chúng ta. Như câu thơ của Nhà thơ Võ Hải: “Chiến tranh chưa khép mắt bao giờ”.     

Nhiều khi, Nguyên Hùng cũng viết lời cho ca khúc được đặt hàng. Như viết cho bệnh viện AF, một bệnh viện chuyên về chữa trị Nam – hiếm muộn, và được Lê An Tuyên phổ nhạc. Hay đến bất ngờ. Trữ tình và thơ mộng, khiến tôi nghe mà không khỏi bật cười. Hay ca khúc “Khát vọng Bảo Lộc” được Đỗ Tiến Lập phổ nhạc: 

“Bảo Lộc đây thơm hương cà phê/ Bảo Lộc xanh Tâm Châu sắc trà/ Bảo Lộc mềm như lụa như tơ/ Mây giăng giăng mênh mang nỗi nhớ…”      

Rất phóng khoáng và rất hào hùng.

Chủ đề của thơ và ca khúc cũng rất phong phú. Chúng ta có thể thấy ở đây, những bài thơ – ca khúc cách mạng (viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, viết về Côn Đảo, chị Võ Thị Sáu, hay viết về những anh hùng thời nay). Nguyên Hùng cũng viết nhiều về nghề tư vấn thiết kế công trình, nơi anh gắn bó gần suốt cuộc đời với đầy cảm xúc ân tình. 

Một đời theo đuổi những áng thơ, Nguyên Hùng đã để lại cho đời hơn trăm ca khúc, bằng cái duyên rất đằm thắm của mình với bạn bè văn nghệ, mà đặc biệt là các nhạc sĩ. Để mỗi khi tiếng nhạc vang lên, những câu thơ của anh cũng lấp lánh cất cánh. Không như thơ của nhà thơ tôi, tâm đắc lắm cũng chỉ để cất vào tủ. Duyên lắm chứ!

Nguồn:     


Mời nghe chùm ca khúc Nguyên Hùng - Lê An Tuyên:

  1. Lời hẹn tình quê: NSƯT Phạm Phương Thảo
  2. Lặng thầm hoa quê: Hoàng Viết Danh
  3. Hoa muống biển: Thanh Tài
  4. Em và biển: Bích Hồng
  5. Bến xưa: Đinh Trang
  6. Sóng không từ biển: NSƯT Vũ Tiến Lâm
  7. Lời yêu Xuân về: Phan Quỳnh Anh
  8. Nghe em hát: Ngọc Linh
  9. Cánh buồm đỏ (Giáng Vân - Nguyên Hùng): Quế Thương
  10. Bảo Lộc khúc tình ca: Minh Sơn & Việt Hòa
  11. Em và biển: NSƯT Vũ Tiến Lâm.
     

Mời đọc:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm