TIN TỨC

Người suốt đời nhập cuộc thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-27 16:54:41
mail facebook google pos stwis
1211 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Các nhà thơ nước ta (và có lẽ cả thế giới) nhiều người lơ ngơ trước cuộc đời, trong số đó nhà thơ Quang Chuyền xứng đáng được xếp vào top đầu. Ông có thơ in báo năm 1964 khi đang là giáo sinh trường Trung cấp Sư phạm Việt Bắc. Năm 1965 tốt nghiệp, anh giáo sinh chưa kịp trở thành giáo viên thì nhà thơ Bàn Tài Đoàn - Hội trưởng Hội Văn Nghệ Khu tự trị Việt Bắc đã nằng nặc xin anh về tạp chí Văn nghệ khu công tác. Quang Chuyền ở Hội Văn Nghệ Việt Bắc ba năm, năm 1968 chích máu viết đơn xin đi bộ đội, ở binh chủng Thông tin cho tới ngày nghỉ hưu.


Nhà thơ Quang Chuyền (2023)

Hơn năm mươi năm kể từ ngày ấy trôi qua, hầu như ở đâu, lúc nào ông cũng làm thơ, in thơ, cũng đau đáu trước những vấn đề cuộc sống đặt ra cho thơ. Hai lần (1971, 1985) dự Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Thơ ông xuất hiện đều trên các báo, tạp chí, các tuyển tập thơ của Hội Nhà văn Việt Nam và các báo khác, nhận nhiều giải thưởng, tên tuổi được nhiều người biết. Vậy mà mãi tới năm 2003, sém sáu mươi tuổi đời, bốn mươi tuổi văn chương ông mới được kết nạp vào Hội. Có sự muộn ấy là do ông “bé cái nhầm”, nghĩ mình cứ viết, đến một lúc nào đấy Hội Nhà văn xem được, sẽ mời vào. Vì thế ông rất lấy làm lạ khi thấy quanh mình nhiều người viết sau, thơ thì cũng thường thường bậc trung mà vào Hội cứ như không, trong khi đó mình dù đã nỗ lực hết mức vẫn không sao lọt được vào con mắt xanh của các nhà tuyển trạch ở Hàn lâm viện 65 Nguyễn Du đáng kính.

Chuyện tình cờ xảy ra, mọi thắc mắc của ông phút chốc sáng tỏ. Năm 2002, Văn nghệ Quân đội kỷ niệm 45 năm ra số đầu tiên. Quang Chuyền được mời dự lễ, bởi ông là cộng tác viên thơ thân thiết của Tạp chí. Đón ông ở sảnh, nhà văn Nguyễn Quốc Trung bảo:

“Anh phải vào Hội đi chứ, cứ ở ngoài mãi thế coi sao tiện?”

“Ờ… vào chứ, vào chứ… nhưng Hội đã mời đâu?” – Quang Chuyền rụt rè.

Nguyễn Quốc Trung ngạc nhiên:

“Lại còn thế nữa. Em nói cho anh biết nhé, Hội Nhà văn Việt Nam thành lập năm 1957, đến nay tròn 45 năm. Trong 45 năm ấy, trừ 25 Hội viên sáng lập ở Đại hội lần thứ nhất là các nhà văn, nhà thơ Nông Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm Biêu… đến nay mới chỉ có một người là nhà thơ Trần Vàng Sao, tác giả “Bài thơ của một người yêu nước mình” được Hội mời (nhưng không vào), số còn lại ai muốn vào cũng phải đảm bảo tiêu chuẩn đã xuất bản ít nhất hai quyển sách văn học, sau đó viết đơn cam kết hoạt động theo tôn chỉ, quy tắc của Hội gửi Ban Tổ chức Hội viên để Hội xét. Ngay cả ông Tổng Thư ký kính mến của chúng ta hiện nay là Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng vậy. Vì thế, việc vào Hội với anh bây giờ, tác phẩm thì đủ rồi nhưng phải viết đơn. Đơn phải có hai người giới thiệu. Anh viết đơn đi, nếu không để em viết cho”

“Ồ, thế mà tôi cứ tưởng…”

Quang Chuyền chưng hửng.

Trở về, ông viết đơn ngay. Năm sau, 2003 ông được Hội Nhà văn Việt Nam xét, kết nạp. “Vừa tiểu đăng khoa lại đại đăng khoa” (chả là trước đó một tuần, Quang Chuyền được Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh kết nạp vào Hội). Quang Chuyền mừng lắm. Kể tôi nghe chuyện này, hơn mười năm trôi qua nhà thơ vẫn ngạc nhiên không hiểu sao mình lại “ngu lâu” đến thế. Nghe xong tôi cười, băn khoăn nếu không có Nguyễn Quốc Trung tình cờ mách cho, không biết đến bây giờ ông đã vào Hội Nhà văn được chưa?

Với thơ là điều quan thiết hàng ngày mà ông còn lơ ngơ vậy, thì trước muôn nẻo đường đời ông có lơ ngơ cũng là sự thường. Vì thế mới có chuyện thời loạn, tính cuộc vuông tròn bộ đội nhiều người chỉ cần về quê một tuần là đủ hoàn tất quy trình ba công đoạn: Xác định đối tượng - yêu - cưới, mà vẫn sinh con đẻ cái, vẫn chung thủy, đợi chờ nhau cho đến ngày đất nước yên bình. Còn anh lính Trần Quang Chuyền và cô giáo Trần Thị Bích Loan, vợ anh, vờn nhau những tám năm, gần bằng chín năm quân dân ta kháng Pháp, mười năm Lê Lợi đánh quân Minh, một sự lãng phí hết sức về thời gian và cơ hội. Mới có chuyện năm 1988, thiếu tá Trần Quang Chuyền được Bộ Tư lệnh Thông tin bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Chính trị Lữ đoàn 596 Viễn thông đóng ở thành phố Hồ Chí Minh. Ông vào, đang chân ướt chân ráo thì chi bộ cơ sở nơi ông công tác tổ chức đại hội nhiệm kỳ. Nghĩ mình đường đường Phó Chủ nhiệm, lại là người của Bộ Tư lệnh điều vào, cơ cấu cấp ủy là chuyện đương nhiên. Nhưng kết quả bầu cử, ông bị gạt… cũng làm ông ngơ ngác. Mới có chuyện đổi đất lấy cơ sở hạ tầng hết sức lãng phí như ông đã làm (mà tôi không tiện kể). 

Ấy thế mà từ nhỏ, ông đã phải vật lộn kiếm sống. Có cái gì mâu thuẫn ở đây, vì những người vào đời sớm thường rất từng trải. Quang Chuyền có từng trải không? Tôi không biết. Nhưng tôi biết ông sinh trong một gia đình nghèo ở vùng đồng trũng tỉnh Vĩnh Phúc, nơi hợp lưu của hai con sông Lô và sông Phó Đáy. Cha ông mất năm 1954, khi mới 36 tuổi. Mẹ ông 32 tuổi, ở vậy nuôi con. Một nách nuôi năm con dại với vài sào ruộng khoán, sự khó khăn không thể nói hết. Mười tuổi, Quang Chuyền vào lớp một, vừa học vừa giúp mẹ làm đồng; đến lớp sáu, một hôm mẹ bảo cậu trưởng:

“Con đã lớn, học thế thôi, ở nhà giúp mẹ cho các em đi học!”

Câu nói ấy, cách đấy không lâu Chuyền đã nghe mẹ nói với chị Hạc, con gái nuôi của bố mẹ anh. Buồn, chị trốn mẹ đi làm công nhân đường sắt trên Yên Bái. Bây giờ đến lượt Quang Chuyền. Không, anh sẽ không trốn nhà ra đi như chị mình, nhưng cũng không thể giữa đường đứt gánh. Một ý nghĩ mới mẻ, táo bạo hình thành trong anh. Anh thưa với mẹ:

“Mẹ cho con lên Tuyên Quang, con sẽ tự kiếm sống, đi học.”

Ấy là anh nghĩ tới ông bà ngoại ở thị xã Tuyên Quang. Dịp nghỉ hè năm ngoái anh được mẹ cho lên Tuyên thăm ông bà, vì thế mà bây giờ Tuyên Quang bỗng trở thành miền đất hứa. Thấy mẹ có vẻ chần chừ, anh dấn thêm:

“Con đi, nhà bớt một miệng ăn, mẹ có thể cho ba em tới trường…”

Cuối cùng mẹ đồng ý. Thế là “Người ra đi đầu luôn ngoảnh lại”(*), hết lớp sáu Quang Chuyền rời nhà, sống tự lập.

Ngày ấy ở thị xã Tuyên Quang, nhà cửa hầu hết được làm bằng tre, nứa. Anh xin với ông bác họ, một chủ thầu xây dựng cho làm thợ phụ, tranh thủ ba tháng hè kiếm ít tiền. Bác đồng ý. Công việc hàng ngày của thợ phụ là vận chuyển tre nứa, đưa rui mè, đòn tay cho thợ chính lợp nhà. Lương thợ chính đồng hai năm xu một ngày công, thợ phụ bằng ½ thợ chính. Dù vậy, với một đứa trẻ choai lần đầu xa nhà, cũng quá tốt. Anh chia tiền nhận được ra làm nhiều khoản: ăn uống, mua quần áo, sách vở cho niên học tới. Ít ngày sau quen việc, thợ phụ Chuyền đã có thể leo lên mái nhà lợp lá cọ, tấm gianh như thợ chính.

Hết hè Quang Chuyền vào học lớp 7E trường cấp II thị xã, vừa tách từ trường Tân Trào ra. Học trò hầu hết là con em Việt kiều ở Tân Đảo về, lớn hơn anh một cái đầu, anh thành người nhỏ nhất lớp.

Thời gian biểu hàng ngày của Chuyền chật kín công việc: sáng lên lớp, chiều làm thợ, buổi tối đi vác thuê tre nứa; chủ nhật thì xách dao vào rừng chặt nứa. Mỗi ngày một trăm cây nứa bảy, to bằng cổ tay, dài 4m. Tập kết nứa ra bờ sông xong, Chuyền bó lại thành bó, mỗi bó hai mươi cây, ghép làm bè mảng. Trên mảng để thêm vài bó củi, rồi thả trôi theo sông về thị xã.

 “Sông Lô sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u… Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa…”. Không, khi đó cậu trưởng Chuyền chẳng biết gì về một sông Lô hùng tráng trong âm nhạc Văn Cao, hát về những sự kiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp xảy ra trên sông cách đấy không lâu. Nhưng nhẩm tính số tiền sẽ thu được, trong lòng cậu có một cái gì đấy cứ muốn ngân lên thành lời. Chịu thương chịu khó, một ngày chủ nhật cậu kiếm đủ tiền chi dùng cho cả tuần. Bây giờ mỗi khi nhớ lại, anh vẫn không hình dung nổi làm sao trong hoàn cảnh ấy anh vẫn thuộc bài, làm bài đầy đủ, vẫn là một học sinh trong top đầu của lớp.

Hết lớp 7, tức là hết cấp II Quang Chuyền thi và đỗ vào trường Sư phạm Việt Bắc. Đây là một vinh dự lớn của đời anh, bởi ngày ấy cả khu tự trị 6 tỉnh chỉ có một trường Sư phạm cấp hai này. Từ đây anh được Nhà nước nuôi ăn học, không còn phải vất vả kiếm sống. Căn cứ kết quả thi, nhà trường xếp Quang Chuyền vào học khối Tự nhiên. Khi các giáo sinh bước vào huấn luyện quân sự, để tạo không khí học đường, Ban Giám hiệu trường phát động một cuộc thi thơ. Với hơn 2.000 tân sinh viên, cuộc thi bề thế lắm. Kết thúc chấm giải, bài thơ “Buổi diễn tập đầu tiên trên thao trường” của anh giáo sinh khối Khoa học Tự nhiên Trần Quang Chuyền được trao giải Nhất. Nhà trường bèn chuyển anh sang học khối Xã hội. Quang Chuyền như cá gặp nước, học hành ngày một tấn tới. Năm học thứ hai được kết nạp Đảng, được báo cáo kinh nghiệm học tập và phấn vào Đảng khắp toàn trường. Tốt nghiệp đỗ Thủ khoa ngành Khoa học Xã hội, trở thành một “hot boy” trong mắt các giáo sinh nữ.

Tất cả những sự ấy được Quang Chuyền ghi lại trong thơ: “Chiều thành Tuyên/ Nắng khép dần cửa sổ/ Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa/ Chim về sải cánh qua soi/ Sông thở bồi hồi/ Giục phà sang Nông Tiến…” Những câu thơ không chỉ được viết từ sự quan sát bình thường, mà bằng sự cảm thấu của một tâm hồn đã gắn bó với vùng đất yêu thương qua nhiều năm tháng.

Đọc thơ Quang Chuyền, muốn lĩnh hội đầy đủ những dở hay, đạt và chưa đạt, ta phải đặt trong văn cảnh chung của nền thơ chống Mỹ. Một nền thơ lấy thành công của cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện của dân tộc làm mục đích sáng tạo. Mọi chất liệu cảm xúc, đề tài, chủ đề đều từ đó mà ra. Với hoàn cảnh xuất thân, kiến thức được trang bị, thời điểm xuất hiện, Quang Chuyền là một ca tiêu biểu của lớp nhà thơ chống Mỹ. Ông nhập cuộc thơ, nhập cuộc kháng chiến ngay từ buổi đầu. Năm 1964, khi Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra miền Bắc, cũng là lúc Quang Chuyền công bố những bài thơ đầu tiên. Thơ ông viết trong thời kỳ này chủ yếu khai thác vào khía cạnh thơ mộng, rất học trò, thấm đẫm hương kỷ niệm của tuổi thơ thân thuộc: “…Tao với mày cùng làng Gốm sinh ra/ Cái làng nhỏ quanh năm hạn úng/ Bởi vì thế khi hai thằng cầm súng/ Có bệ tì là nỗi khổ xa xưa…” (Gửi bạn nơi xa). Hoặc: “Hát về mảnh đất yêu thương/ Bến sông trải nắng, con đường xanh cây/ Hát về cánh trắng cò bay/ Lô xô đồi đất, vơi đầy đồng chiêm/ Từ trong câu hát lớn lên/ Đời tôi tha thiết một miền quê hương…” (Đất ơi).

Mỹ leo thang chiến tranh, bom đạn lan rộng dần. Đổ nát, thương vong đã vào nhiều đô thị, vào cả Hà Nội. Trên đất nước chẳng còn nơi nào bình yên. Anh bộ đội Quang Chuyền vượt Trường Sơn vô chiến trường. Một lần tới ngã ba làng Nút, phía Tây Quảng Trị. Do lỡ đường, trời tối, anh phải ngủ lại trong một lòng cống đặt ngang dưới đường xe tăng đi. Suốt đêm ấy anh và mấy người đồng đội nằm trong sự đu đưa đánh võng của đạn pháo địch. Tai ù đặc vì tiếng nổ. Sáng ra cửa cống bị đất đá lấp gần hết. Giày, dép, ba lô, vật dùng bị đất cát vùi chôn. Cùng lúc ấy cách cống các anh nằm chừng năm chục mét, mấy đồng đội khác đang gọi nhau, đào bới, thu nhặt xác của ba đồng đội đêm qua bị đạn pháo nổ trúng hầm. Từng chút xương, chút thịt vương vãi trong máu, trong đất, trong cát được thu nhặt lại, đặt vào các tấm tăng. Xong, mọi người moi đất bên cạnh, đặt các bó tăng xuống, lấp đất chôn cất liệt sĩ. Mộ chí là những mảnh cây khắc họ, tên từng người: “Cây trẻ rừng già/ Tôi qua năm ấy/ Vết khắc đoạn cây/ Vết gãy/ Ngang câu thơ mình/ Chấm mỗi dấu than/ Lại thấy/ Hiện về gương mặt các anh!...”. Sự kiện trên được Quang Chuyền ghi thành thơ như những dòng nhật ký.

Tiêu biểu cho việc đưa hiện thực chiến trường vào thơ trong giai đoạn này của Quang Chuyền, theo tôi, là bài Qua khu rừng trắng, viết ở Quảng Đà năm 1974:

Từng đi qua bao nhiêu rừng xanh

Mới thấm hết nỗi đau trước vùng rừng trắng

Mênh mông im lặng

Cơn gió lùa buốt tim

 

Nhức nhối mắt nhìn

Triền miên màu trắng

Cây thấp, cây cao, cay cong, cây thẳng

Cùng chung dáng hình

Những thân cây đầy vết đạn, giơ cành

Trần trụi lá nên không thành cây nữa

 

Đâu rồi vị chua lá bứa

Đâu rồi màu lửa hoa chuối đỏ bừng

Đâu rồi tiếng chim say lòng rưng rưng

Đâu dòng suối bâng khuâng cánh bướm?

 

Chỉ còn đây màu trắng

màu trắng còn lại đây

Dáng hình của cây

Tạc lên nền trời

tạc vào mặt đất

Tạc trong lòng người

Là dấu hỏi treo ngang tầm mắt

 

Đi qua rừng trắng bao nhiêu con người

Nhấp nhô ba lô, nòng súng

Thậm thịch bàn chân bước trong tim lặng

Nhìn đồng đội đi tôi chợt hiểu điều này

Áo quần chúng tôi xanh đậm màu cây”.

Bài thơ mở đầu như một bài ký (khổ 1, 2), nhưng chất liệu ký trong đó được tác giả sử dụng như là phương tiện cho sự phát triển của tứ thơ, và ngay ở cả những câu thơ - ký sự này, mỗi câu đều được viết với một sự kìm nén lớn tạo nên một cảm xúc thẩm mỹ cao trong lòng người đọc. Câu thơ hay nhất bài: “Trần trụi lá nên không thành cây nữa” là sự bật thốt của cảm xúc, làm rung chuyển chúng ta và chúng ta cảm thấy hết cái sức nặng của chiến tranh, của những mất mát, hy sinh mà chúng ta phải gánh chịu. Không sa vào kể lể, những liên tưởng tiếp theo (khổ 3, 4) tiếp tục đào sâu cảm xúc, làm thành một mạch ngầm mãnh liệt, tương ứng với hiện thực trần trụi bên ngoài. (Khổ 5) kết thúc bật lên bất ngờ, đem lại cho ta một niềm tin, một hy vọng về chính nghĩa của chúng ta, về sự sống sẽ được chúng ta bảo vệ…

Quang Chuyền làm thơ nhiều thể loại, nhưng sở trường thể lục bát. Lục bát chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp thơ anh. Lật mở mười bảy tập thơ nhà thơ đã xuất bản, tập nào thơ lục bát cũng chiếm số lượng lớn. Hơn thế, anh còn dành hẳn một tập chuyên về lục bát (Bốn câu lục bát, nxb VHVNTP Hồ Chí Minh, 2014).Vẫn là hai câu 6 – 8, vẫn B-T-B/ T-T-B ở câu lục. B-T-B-B/ T-B-T-B ở câu bát, lục bát Quang Chuyền mang dấu ấn riêng của hồn thơ anh, không lẫn với những nhà thơ lính khác: một mối tình dang dở, một bến nước thân quen, một con phố nhỏ nơi sơ tán, những người thân, bạn  bè cũ… những gì níu giữ anh với quê nhà, đúng như anh tuyên ngôn: “…Nổi nênh đắng đót ngọt ngào/ Mượn hồn tục ngữ ca dao đi về…”

Đọc lục bát Quang Chuyền, thấy anh không cố ý làm mới thể thơ cũ của cha ông bằng những ngắt nhịp, bẻ từng tiết một rồi viết xuống dòng như  thơ tự do. Tức là anh không cố ý làm mới lục bát về hình thức, mà chủ yếu bằng nội dung, bằng sự tinh tế, hóm hỉnh  trong nhìn nhận sự việc, luyện đạt nhân tình. Bằng cách ấy, anh đã ghi được dấu ấn của mình trong lòng người đọc đối với thể thơ truyền thống của dân tộc. Bên cạnh Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh… những nhà thơ cùng trang lứa có nhiều thành công về lục bát, người đọc không thể không nhắc tới Quang Chuyền. Không như  anh tự vịnh: “Tôi từ ít nhớ nhiều quên/ Sân ga lẻ bóng mình lên một tàu…”

* Thơ Nguyễn Đình Thi: “…Người ra đi đầu không ngoảnh lại…”

 4 – 2017

Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 27 (2994) ra ngày 8-7-2017

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm