TIN TỨC

Đọc thơ Trần Mai Hường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-15 09:00:47
mail facebook google pos stwis
1222 lượt xem

TUẤN TRẦN

Trước hết thơ Trần Mai Hường toát lên tính nữ: tính nữ trung hòa, trữ tình, da diết và đầy khát vọng giao cảm. Dẫu thao thức bồn chồn, dẫu vẫn rạo rực vô tư. Song nó luôn luôn nằm lại ở nữ tính, không phải nữ quyền. Thơ chị luôn nằm trong bổn phận, bổn phận của người nữ kiểu “em chỉ là em thôi!...”.


Nhà thơ Trần Mai Hường

Hệ hình ẩn dụ trong thơ Trần Mai Hường giăng mắc dày đặc nhưng rất tỉnh táo. Có thể nói sau cái “ngồn ngộn” cảm xúc dâng lên, giáng xuống đó là một tấm lòng người nữ bao dung, luôn đứng đó ở đường biên, để dễ dàng trở về nguyên vẹn nhịp đập đời thường. Thơ Trần Mai Hường luôn xanh, xanh lưu cửu (chẳng chín bao giờ). Cái xanh từ thưở mười ba cho đến năm hai mươi mấy, ba mươi vừa đủ đằm thắm, ngọt ngào trong phôi pha. Thơ Trần Mai Hường ít khi buồn, tình trong thơ không cảm- tưởng về sự ôm sầu ấp thảm như những giọng nữ trong thơ thường thấy mà luôn ngợi ca “em”, ngợi ca “anh”, ngợi ca đời với sự nâng niu, thưởng thức. Nữ sĩ luôn ở trạng thái tha thứ, tha cho “anh” cho tình yêu và cả cho “em”- chủ thể trữ tình trong thơ nữa. Chỉ cần là anh thì em sẽ “ừ!”, gật đầu cho mọi sự thể bao dung. Tất nhiên Trần Mai Hường là một thi dân giàu có, phong phú những giọng thơ, viết về tình về anh về hiếu hạnh, về những con đường, những tuổi thần tiên, về mùa thi và phượng vĩ. Nhưng khi tiếp nhận thơ chị tôi nằm lại ở đó, trên bờ cỏ dày nguyên sinh ủ muôn dấu “tiếng đàn bà”, sợi tình tơ nghĩa trải giăng theo số phận của những mùa em:

“Có một ngày đá bỗng biết nhớ nhung, nỗi nhớ vu vơ từ nơi nào xa lắm, mây như mướt hơn khoe trời ngọt nắng, ngọn gió mềm lay khẽ phím non tơ.

Ngỡ qua rồi những run rẩy xa xưa, thời phấn trắng bảng đen tươi nguyên màu áo, tình yêu ngàn đời vẫn trái tim mách bảo, thuở tinh khôi lại chập chững tìm về.

Em rưng rưng đón nhận đam mê, khẽ lùa tay chặn tim mình lỗi nhịp, có phải anh thực hư hư thực, dan díu nào mặc định sóng đa đoan.

Đêm trống đêm em hờn giận thời gian mà thời gian thích đùa dai đến lạ, em như chấm buồm nhỏ nhoi giữa trùng trùng biển cả, nào biết dưới biếc xanh kia ẩn chứa những gì.

Chợt bàng hoàng khép nhẹ hàng mi, ẩn hiện bóng hình người em mong gặp, biết đâu... biết đâu... ở một nơi xa lắm, anh cũng như mình...lặng lẽ...biết đâu...”

                                                                      (Thơ cho người mong gặp)

“Đá”- tính cứng đơn thuần nhưng lõi cốt là mềm mại, cô đơn. Chính vì thế đá cũng biết nhớ nhung. Em dẫu đã “không còn tuổi nào” vẫn một lòng tha thiết gọi dậy giấc mơ thời thiếu nữ. Trong sự “đá” tưởng đã chai lỳ bổn phận, nội tâm thi nhân bỗng sôi nổi, mãnh liệt để tuôn đổ ngàn lời và ngàn lần nữa yêu thương phơi trải giữa trời nước mênh mông, diệu vợi. Trên non cao và cả trong vô thường.

Trong khoảnh khắc, “khép nhẹ hàng mi” (khép hờ chưa hẳn) ấy, em đã bước vào “thực tại mộng mị”. Bắt đầu là những câu hỏi lộ bày tính nữ, những câu hỏi không có câu trả lời, hoặc chẳng cần có. Cái nữ tính trong thơ, trước hết ở những câu hỏi tu từ, câu hỏi không đáp, không định, đóng kết tứ thơ giữa bời bời cảm xúc miên viễn, xa xôi mà nặng trĩu một nỗi tự phô bày. Em lần mò nội tâm về anh và thò bàn tay từ tâm thức ra ngoại giới để tìm anh trong trạng thái mơ hồ thế nhưng bố cục thơ lại được khung khổ ở một trật tự tuyến tính. Nét độc đáo trong các thiết lập hình thức văn bản thơ cách tân, hiện đại. Điều đó cho thấy Trần Mai Hường là nhà thơ sắc sảo và lý trí, dùng lý trí để dẫn đường cho cảm xúc và trực cảm. Để thơ chị luôn hàm chứa những hạt nhân của niềm tin, sự “buông” dẫu tình yêu là tín ngưỡng đẹp nhất trong lòng:

Có một ngày đá bỗng biết nhớ nhung- mở đầu mệnh đề, một luận đề có chất triết thuyết, được diễn đạt đầy thi hứng, thi cảm, một sự nhớ đổ ập bất ngờ…

Ngỡ qua rồi những run rẩy xa xưa- trước cơn thương em bắt đầu chuyển động tìm yêu, miết dấu thời gian mà trở về tinh khôi.

Em rưng rưng đón nhận đam mê- em không khước từ những đau thương chạm đáy, em sẵn lòng cho những đối mặt hôm nay, em lần nữa gian díu giải trình anh.

Đêm trống đêm em hờn giận thời gian- em trào dâng nỗi oán hờn đa đoan, thời gian thách thức em tìm anh trong mọi chiều kích thời/ không rộng lớn thực, mơ hỗn trộn.

Chợt bàng hoàng khép nhẹ hàng mi- em biến thực tại thành hư tưởng, trong mộng mị để được gặp anh.

Mở đầu bất chợt và kết thúc bàng hoàng. Nhưng hàng mi em nhẹ khép nghĩa là em không còn chấp sự. Em sẽ để ra đó những “…”, khoảng trống như để mãi chực trào trong mơ. Khoảng trống đó em bỏ ngỏ, nghĩa là em bao dung không phán xét nửa lời. Em nhói đau âm thầm, chịu đựng, để thứ tha cho anh, cho em và cho tình yêu luôn ở thì hiện tại tiếp diễn.

Đến với bài thơ “Thơ viết lúc buồn” là sự pha trộn giữa kí ức và thực tại. Mơ và thực. Nỗi đau, sự trớ trêu cùng cái tỉnh thức. Thủ pháp gối tựa trùng điệp, tối đa tính từ biểu cảm, cùng những khoảng trắng gián cách, gạch nối tạo nên cái buông- neo nơi cảm xúc. Sự đan bện giữa các xúc cảm có nối tiếc, trách móc, chua xót, ngậm ngùi, dồn nén và thở dài trong nỗi trớ trêu.

Cảnh tượng được mô tả tỉ mẩn, theo những diễn biến cảm xúc với giọng điệu trữ tình trung tính, gần như vô âm sắc thi thoảng những hư từ “Ừ”, “Ú òa” như tiếng lòng được thả ra giữa tuyệt vọng, vô lực, sự chấp nhận trong những nhói đau. Chấp nhận cái mênh mông, hư ảo của tình và đời đã xa mặt- cách lòng- trật nhịp. Không cao giọng mà đầy những mang móc thực tại, quá khứ, tương lai, sự trơ ra đó giữa những khát vọng yêu thương, những muốn tỏ bày chưa kịp nói ra. Trong chăn đơn gối chiếc em quay cuồng trong sự vụ tìm anh:

“Thế là ta lại quay vào ô mất lượt

Thương yêu ơi - đã lạc tận phương tìm

Ừ cứ nghĩ lòng mình trong như nắng

Vách đá cuối đường có trổ nhánh an nhiên

Hình ảnh “Quay vào ô mất lượt” đi trước là phó từ “lại” nghĩa là lần mất lượt này đã tái diễn, nhiều hơn một lần và có thể là vô lần chẳng đếm đong được. Tình yêu vốn dĩ là một bí mật, hàm số vô ẩn hoặc vô số ẩn số không thể nào cắt nghĩa, lý giải. Thi nhân đã hữu hình hóa cái vô hình của tình yêu giống như một trò chơi. Thật là, không ai thiết kế trò chơi hay bằng tạo hóa. Và không ai giải trình trò chơi đó hay bằng “em”. Lạc mất rồi thì em lòng như hóa nắng, dọi thêm những chói chang cho tình đời, tình người đẹp thêm chút đỉnh! Em sẽ về với an nhiên, ôm cả sầu thương lẫn đoạn trường và đã chơi được em sẽ chịu được. Sẽ cười như xé cả màn đêm, cho khoảnh khắc tình mãi lên ngôi:

Tự gom hết bao khúc quanh nghiệt ngã

Hun hút đêm dài sương ghé tóc kết hoa

Ngơ ngác soi gương tập cười vang như thể

Cuộc trần gian chơi giỡn ú òa

 

Ừ xa lắm quê nhà lăng lắc gió

Những đận đời chèo chống ngược dòng đau

Thêu thùa lại những sắc màu. Tự dỗ...

Lại dặn lòng ừ nhỉ có gì đâu

Tình như tấm vải thô sơ, anh trao tay và em thêu thùa bằng những đắng đót, khúc quanh, bằng những tự chống chèo trong trống trải, đơn côi. Em tự dỗ, tự ru, tự rồ dại rồi tự lau ráo lệ. Trên từng đường kim mũi chỉ, thế giới hiện ra bảy màu phổ quang: Đỏ, cam, vàng, da cam, chàm, tím. Sắc nền đem đúa như hun hút đêm dài anh để em một mình.

Lửa biểu tượng sự thiêu đốt. Lửa thảng thốt đêm nay là nhân quả của lửa thề nguyền xưa kia. Khi tình yêu đến những nóng bỏng trực trào, khi tình tan mộng vỡ những bàng hoàng trong giao thức xuất lộ. Lửa lại đến xoáy khoét thêm nỗi đau. Giữa mùng đêm em xòe bàn tay, để lửa cháy rực những cuồng quyến thân thuộc. Những xanh tươi của ngày đôi mươi ùa về, phủ xanh những chứa chan. Nhưng rồi em trở về với nhịp đập đời thường, tỉnh mộng và giàn dụa những nước mắt. Em mơ màng rồi em đối diện, em sống lại một thời con gái. “Ô mất lượt” đã mở ra cả khung trời kỉ niệm và “Ô mất lượt” cũng đóng gói  một vòng tròn những đam mê. Em buồn, em khóc đó, nhưng em vẫn là con người của thực tại hôm nay. Nhận diện rõ trò chơi, trò đời: và em chơi và em quay và đã “mất lượt nữa rồi”.

Xòe bàn tay - lửa rần rần thảng thốt

Trong mơ xanh ta ước nắng xanh dìu

Chợt tỉnh giấc

Mình và ô mất lượt

Cứ xoay tròn

Giàn giụa những trớ trêu.”

                    (Thơ viết lúc buồn)

Giọng thơ của bài Dối mình ôn tồn âu yếm, nhẹ nhõm duyên dáng, lúc đau đớn nghẹn ngào, khi tỉnh táo rành rẽ, lúc phân vân, xao xuyến ngập ngừng…Nhưng ngay cả khi nói đến rất nhiều sự thoáng qua mất mát, giọng thơ chưa bao giờ ngả màu bi lụy, ngược lại, luôn can đảm và căng tràn nhựa sống. Những dòng hồi cảm luôn mang tinh thần hướng về hiện tại. Ấy là thơ của một người dường như đã sống trải qua mấy kiếp đời nhưng vẫn giữ vẹn nguyên linh hồn của một thiếu nữ thổn thức trong thơ:

Chiều thắt màu nơ tím

Trái tim rưng nốt chờ

Thương mới vừa hé nụ

Nhớ đã mùa ngẩn ngơ

Hình ảnh thơ rất con gái: nơ tím, nụ và mùa. Nhịp đập rưng rưng của con tim và cái cảm thức thời gian vội vả, gấp gáp đã làm cho câu thơ đọc lên dễ thương vô ngần, mà sâu lắng vô cùng trong cái ngẩn ngơ trước chiều và dòng chảy thời/ không.

Buồn như tờ giấy nháp

Lật từng trang đọc mình

Chữ vẫn còn mê ngủ

Đan vách đời lặng thinh

 

Thả dài theo mắt gió

Nhặt mong manh tiếng cười

Sao chép vào ngăn nhớ

Mùi yêu kết cườm môi...

Cảm xúc được thả nhẹ nhàng vào thinh không, rồi lại được cài quấn, góp nhặt, sao chép, bôi xóa. Cách gieo vần, ngắt nhịp và cấu tứ ngũ ngôn hiện đại đã làm cho nhịp điệu trữ tình trong thơ thêm phần ngọt ngào, vẫy gọi và luôn trong trạng thái lấp lánh những sắc màu.

Như người đang mất trí

Giải trình một cuộc quên

Đành xé rào ký ức

Tự dối mình là em

 

Thấy mình nhòe mực tím

Thấy anh kính trắng... Và...

Nữ sĩ đổ ra giấy những bận bịu cõi lòng, những dòng mực bén đượm hương hồn kí ức tình người, tình đời đẹp đẽ. Trong nhớ nhớ, quên quên, trong nhòe mờ quá khứ vẫn cự quậy, nhung nhúc sợi tình tơ nghĩa đang động mình thắm lại. Vẫn là những “…”, những khoảng trống buông lơi, những hiện diện vắng mặt. Tác giả đã kết thúc niềm cảm hiểu lòng riêng bằng cái lập lờ bởi còn đó những ấp iu nồng đượm, những chưa thỏa lòng, là tình, là yêu, là hận, tất cả đều không rõ ràng.

Ba bài tình thơ như ba bức thư tình viết trong hoang, trong đêm, trong những nổi- chìm bể dâu. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi, “em chỉ là con gái” buồn khóc, vui cười. Cái yêu của em dừng lại nơi thì con gái không có bổn phận trưng ra một luận đề triết học trong thơ. Sứ mệnh em bọc trong má hồng, nhưng trong cái yêu anh không oằn oại đớn đau, không róng riết kêu đòi, không hận sầu bi thương, không kiêu hãnh, hẹp hòi. Chỉ yêu mềm mại, yêu tha thứ và luôn nỗ lực quên đi những điều không nên nhớ, và nhớ lấy những điều không được quên. So với nữ sĩ Xuân Quỳnh ở phương diện thơ tình và tính nữ, Trần Mai Hường như một sự thừa hưởng, nối kết. Bởi trong thơ Xuân Quỳnh và thơ chị luôn có sự nhìn nhận chính mình, trách mình như cách độ tha của một người phụ nữ luôn biết hi sinh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm