TIN TỨC

Đọc thơ Trần Mai Hường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-15 09:00:47
mail facebook google pos stwis
1165 lượt xem

TUẤN TRẦN

Trước hết thơ Trần Mai Hường toát lên tính nữ: tính nữ trung hòa, trữ tình, da diết và đầy khát vọng giao cảm. Dẫu thao thức bồn chồn, dẫu vẫn rạo rực vô tư. Song nó luôn luôn nằm lại ở nữ tính, không phải nữ quyền. Thơ chị luôn nằm trong bổn phận, bổn phận của người nữ kiểu “em chỉ là em thôi!...”.


Nhà thơ Trần Mai Hường

Hệ hình ẩn dụ trong thơ Trần Mai Hường giăng mắc dày đặc nhưng rất tỉnh táo. Có thể nói sau cái “ngồn ngộn” cảm xúc dâng lên, giáng xuống đó là một tấm lòng người nữ bao dung, luôn đứng đó ở đường biên, để dễ dàng trở về nguyên vẹn nhịp đập đời thường. Thơ Trần Mai Hường luôn xanh, xanh lưu cửu (chẳng chín bao giờ). Cái xanh từ thưở mười ba cho đến năm hai mươi mấy, ba mươi vừa đủ đằm thắm, ngọt ngào trong phôi pha. Thơ Trần Mai Hường ít khi buồn, tình trong thơ không cảm- tưởng về sự ôm sầu ấp thảm như những giọng nữ trong thơ thường thấy mà luôn ngợi ca “em”, ngợi ca “anh”, ngợi ca đời với sự nâng niu, thưởng thức. Nữ sĩ luôn ở trạng thái tha thứ, tha cho “anh” cho tình yêu và cả cho “em”- chủ thể trữ tình trong thơ nữa. Chỉ cần là anh thì em sẽ “ừ!”, gật đầu cho mọi sự thể bao dung. Tất nhiên Trần Mai Hường là một thi dân giàu có, phong phú những giọng thơ, viết về tình về anh về hiếu hạnh, về những con đường, những tuổi thần tiên, về mùa thi và phượng vĩ. Nhưng khi tiếp nhận thơ chị tôi nằm lại ở đó, trên bờ cỏ dày nguyên sinh ủ muôn dấu “tiếng đàn bà”, sợi tình tơ nghĩa trải giăng theo số phận của những mùa em:

“Có một ngày đá bỗng biết nhớ nhung, nỗi nhớ vu vơ từ nơi nào xa lắm, mây như mướt hơn khoe trời ngọt nắng, ngọn gió mềm lay khẽ phím non tơ.

Ngỡ qua rồi những run rẩy xa xưa, thời phấn trắng bảng đen tươi nguyên màu áo, tình yêu ngàn đời vẫn trái tim mách bảo, thuở tinh khôi lại chập chững tìm về.

Em rưng rưng đón nhận đam mê, khẽ lùa tay chặn tim mình lỗi nhịp, có phải anh thực hư hư thực, dan díu nào mặc định sóng đa đoan.

Đêm trống đêm em hờn giận thời gian mà thời gian thích đùa dai đến lạ, em như chấm buồm nhỏ nhoi giữa trùng trùng biển cả, nào biết dưới biếc xanh kia ẩn chứa những gì.

Chợt bàng hoàng khép nhẹ hàng mi, ẩn hiện bóng hình người em mong gặp, biết đâu... biết đâu... ở một nơi xa lắm, anh cũng như mình...lặng lẽ...biết đâu...”

                                                                      (Thơ cho người mong gặp)

“Đá”- tính cứng đơn thuần nhưng lõi cốt là mềm mại, cô đơn. Chính vì thế đá cũng biết nhớ nhung. Em dẫu đã “không còn tuổi nào” vẫn một lòng tha thiết gọi dậy giấc mơ thời thiếu nữ. Trong sự “đá” tưởng đã chai lỳ bổn phận, nội tâm thi nhân bỗng sôi nổi, mãnh liệt để tuôn đổ ngàn lời và ngàn lần nữa yêu thương phơi trải giữa trời nước mênh mông, diệu vợi. Trên non cao và cả trong vô thường.

Trong khoảnh khắc, “khép nhẹ hàng mi” (khép hờ chưa hẳn) ấy, em đã bước vào “thực tại mộng mị”. Bắt đầu là những câu hỏi lộ bày tính nữ, những câu hỏi không có câu trả lời, hoặc chẳng cần có. Cái nữ tính trong thơ, trước hết ở những câu hỏi tu từ, câu hỏi không đáp, không định, đóng kết tứ thơ giữa bời bời cảm xúc miên viễn, xa xôi mà nặng trĩu một nỗi tự phô bày. Em lần mò nội tâm về anh và thò bàn tay từ tâm thức ra ngoại giới để tìm anh trong trạng thái mơ hồ thế nhưng bố cục thơ lại được khung khổ ở một trật tự tuyến tính. Nét độc đáo trong các thiết lập hình thức văn bản thơ cách tân, hiện đại. Điều đó cho thấy Trần Mai Hường là nhà thơ sắc sảo và lý trí, dùng lý trí để dẫn đường cho cảm xúc và trực cảm. Để thơ chị luôn hàm chứa những hạt nhân của niềm tin, sự “buông” dẫu tình yêu là tín ngưỡng đẹp nhất trong lòng:

Có một ngày đá bỗng biết nhớ nhung- mở đầu mệnh đề, một luận đề có chất triết thuyết, được diễn đạt đầy thi hứng, thi cảm, một sự nhớ đổ ập bất ngờ…

Ngỡ qua rồi những run rẩy xa xưa- trước cơn thương em bắt đầu chuyển động tìm yêu, miết dấu thời gian mà trở về tinh khôi.

Em rưng rưng đón nhận đam mê- em không khước từ những đau thương chạm đáy, em sẵn lòng cho những đối mặt hôm nay, em lần nữa gian díu giải trình anh.

Đêm trống đêm em hờn giận thời gian- em trào dâng nỗi oán hờn đa đoan, thời gian thách thức em tìm anh trong mọi chiều kích thời/ không rộng lớn thực, mơ hỗn trộn.

Chợt bàng hoàng khép nhẹ hàng mi- em biến thực tại thành hư tưởng, trong mộng mị để được gặp anh.

Mở đầu bất chợt và kết thúc bàng hoàng. Nhưng hàng mi em nhẹ khép nghĩa là em không còn chấp sự. Em sẽ để ra đó những “…”, khoảng trống như để mãi chực trào trong mơ. Khoảng trống đó em bỏ ngỏ, nghĩa là em bao dung không phán xét nửa lời. Em nhói đau âm thầm, chịu đựng, để thứ tha cho anh, cho em và cho tình yêu luôn ở thì hiện tại tiếp diễn.

Đến với bài thơ “Thơ viết lúc buồn” là sự pha trộn giữa kí ức và thực tại. Mơ và thực. Nỗi đau, sự trớ trêu cùng cái tỉnh thức. Thủ pháp gối tựa trùng điệp, tối đa tính từ biểu cảm, cùng những khoảng trắng gián cách, gạch nối tạo nên cái buông- neo nơi cảm xúc. Sự đan bện giữa các xúc cảm có nối tiếc, trách móc, chua xót, ngậm ngùi, dồn nén và thở dài trong nỗi trớ trêu.

Cảnh tượng được mô tả tỉ mẩn, theo những diễn biến cảm xúc với giọng điệu trữ tình trung tính, gần như vô âm sắc thi thoảng những hư từ “Ừ”, “Ú òa” như tiếng lòng được thả ra giữa tuyệt vọng, vô lực, sự chấp nhận trong những nhói đau. Chấp nhận cái mênh mông, hư ảo của tình và đời đã xa mặt- cách lòng- trật nhịp. Không cao giọng mà đầy những mang móc thực tại, quá khứ, tương lai, sự trơ ra đó giữa những khát vọng yêu thương, những muốn tỏ bày chưa kịp nói ra. Trong chăn đơn gối chiếc em quay cuồng trong sự vụ tìm anh:

“Thế là ta lại quay vào ô mất lượt

Thương yêu ơi - đã lạc tận phương tìm

Ừ cứ nghĩ lòng mình trong như nắng

Vách đá cuối đường có trổ nhánh an nhiên

Hình ảnh “Quay vào ô mất lượt” đi trước là phó từ “lại” nghĩa là lần mất lượt này đã tái diễn, nhiều hơn một lần và có thể là vô lần chẳng đếm đong được. Tình yêu vốn dĩ là một bí mật, hàm số vô ẩn hoặc vô số ẩn số không thể nào cắt nghĩa, lý giải. Thi nhân đã hữu hình hóa cái vô hình của tình yêu giống như một trò chơi. Thật là, không ai thiết kế trò chơi hay bằng tạo hóa. Và không ai giải trình trò chơi đó hay bằng “em”. Lạc mất rồi thì em lòng như hóa nắng, dọi thêm những chói chang cho tình đời, tình người đẹp thêm chút đỉnh! Em sẽ về với an nhiên, ôm cả sầu thương lẫn đoạn trường và đã chơi được em sẽ chịu được. Sẽ cười như xé cả màn đêm, cho khoảnh khắc tình mãi lên ngôi:

Tự gom hết bao khúc quanh nghiệt ngã

Hun hút đêm dài sương ghé tóc kết hoa

Ngơ ngác soi gương tập cười vang như thể

Cuộc trần gian chơi giỡn ú òa

 

Ừ xa lắm quê nhà lăng lắc gió

Những đận đời chèo chống ngược dòng đau

Thêu thùa lại những sắc màu. Tự dỗ...

Lại dặn lòng ừ nhỉ có gì đâu

Tình như tấm vải thô sơ, anh trao tay và em thêu thùa bằng những đắng đót, khúc quanh, bằng những tự chống chèo trong trống trải, đơn côi. Em tự dỗ, tự ru, tự rồ dại rồi tự lau ráo lệ. Trên từng đường kim mũi chỉ, thế giới hiện ra bảy màu phổ quang: Đỏ, cam, vàng, da cam, chàm, tím. Sắc nền đem đúa như hun hút đêm dài anh để em một mình.

Lửa biểu tượng sự thiêu đốt. Lửa thảng thốt đêm nay là nhân quả của lửa thề nguyền xưa kia. Khi tình yêu đến những nóng bỏng trực trào, khi tình tan mộng vỡ những bàng hoàng trong giao thức xuất lộ. Lửa lại đến xoáy khoét thêm nỗi đau. Giữa mùng đêm em xòe bàn tay, để lửa cháy rực những cuồng quyến thân thuộc. Những xanh tươi của ngày đôi mươi ùa về, phủ xanh những chứa chan. Nhưng rồi em trở về với nhịp đập đời thường, tỉnh mộng và giàn dụa những nước mắt. Em mơ màng rồi em đối diện, em sống lại một thời con gái. “Ô mất lượt” đã mở ra cả khung trời kỉ niệm và “Ô mất lượt” cũng đóng gói  một vòng tròn những đam mê. Em buồn, em khóc đó, nhưng em vẫn là con người của thực tại hôm nay. Nhận diện rõ trò chơi, trò đời: và em chơi và em quay và đã “mất lượt nữa rồi”.

Xòe bàn tay - lửa rần rần thảng thốt

Trong mơ xanh ta ước nắng xanh dìu

Chợt tỉnh giấc

Mình và ô mất lượt

Cứ xoay tròn

Giàn giụa những trớ trêu.”

                    (Thơ viết lúc buồn)

Giọng thơ của bài Dối mình ôn tồn âu yếm, nhẹ nhõm duyên dáng, lúc đau đớn nghẹn ngào, khi tỉnh táo rành rẽ, lúc phân vân, xao xuyến ngập ngừng…Nhưng ngay cả khi nói đến rất nhiều sự thoáng qua mất mát, giọng thơ chưa bao giờ ngả màu bi lụy, ngược lại, luôn can đảm và căng tràn nhựa sống. Những dòng hồi cảm luôn mang tinh thần hướng về hiện tại. Ấy là thơ của một người dường như đã sống trải qua mấy kiếp đời nhưng vẫn giữ vẹn nguyên linh hồn của một thiếu nữ thổn thức trong thơ:

Chiều thắt màu nơ tím

Trái tim rưng nốt chờ

Thương mới vừa hé nụ

Nhớ đã mùa ngẩn ngơ

Hình ảnh thơ rất con gái: nơ tím, nụ và mùa. Nhịp đập rưng rưng của con tim và cái cảm thức thời gian vội vả, gấp gáp đã làm cho câu thơ đọc lên dễ thương vô ngần, mà sâu lắng vô cùng trong cái ngẩn ngơ trước chiều và dòng chảy thời/ không.

Buồn như tờ giấy nháp

Lật từng trang đọc mình

Chữ vẫn còn mê ngủ

Đan vách đời lặng thinh

 

Thả dài theo mắt gió

Nhặt mong manh tiếng cười

Sao chép vào ngăn nhớ

Mùi yêu kết cườm môi...

Cảm xúc được thả nhẹ nhàng vào thinh không, rồi lại được cài quấn, góp nhặt, sao chép, bôi xóa. Cách gieo vần, ngắt nhịp và cấu tứ ngũ ngôn hiện đại đã làm cho nhịp điệu trữ tình trong thơ thêm phần ngọt ngào, vẫy gọi và luôn trong trạng thái lấp lánh những sắc màu.

Như người đang mất trí

Giải trình một cuộc quên

Đành xé rào ký ức

Tự dối mình là em

 

Thấy mình nhòe mực tím

Thấy anh kính trắng... Và...

Nữ sĩ đổ ra giấy những bận bịu cõi lòng, những dòng mực bén đượm hương hồn kí ức tình người, tình đời đẹp đẽ. Trong nhớ nhớ, quên quên, trong nhòe mờ quá khứ vẫn cự quậy, nhung nhúc sợi tình tơ nghĩa đang động mình thắm lại. Vẫn là những “…”, những khoảng trống buông lơi, những hiện diện vắng mặt. Tác giả đã kết thúc niềm cảm hiểu lòng riêng bằng cái lập lờ bởi còn đó những ấp iu nồng đượm, những chưa thỏa lòng, là tình, là yêu, là hận, tất cả đều không rõ ràng.

Ba bài tình thơ như ba bức thư tình viết trong hoang, trong đêm, trong những nổi- chìm bể dâu. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi, “em chỉ là con gái” buồn khóc, vui cười. Cái yêu của em dừng lại nơi thì con gái không có bổn phận trưng ra một luận đề triết học trong thơ. Sứ mệnh em bọc trong má hồng, nhưng trong cái yêu anh không oằn oại đớn đau, không róng riết kêu đòi, không hận sầu bi thương, không kiêu hãnh, hẹp hòi. Chỉ yêu mềm mại, yêu tha thứ và luôn nỗ lực quên đi những điều không nên nhớ, và nhớ lấy những điều không được quên. So với nữ sĩ Xuân Quỳnh ở phương diện thơ tình và tính nữ, Trần Mai Hường như một sự thừa hưởng, nối kết. Bởi trong thơ Xuân Quỳnh và thơ chị luôn có sự nhìn nhận chính mình, trách mình như cách độ tha của một người phụ nữ luôn biết hi sinh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm