TIN TỨC

Biểu tượng đất trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-06 11:24:52
mail facebook google pos stwis
3069 lượt xem

Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn Việt Nam đương đại nổi tiếng với nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, thơ. Sinh thái tự nhiên Nam Bộ được thể hiện trong tác phẩm của chị chủ yếu là hai yếu tố đất và nước. Bài viết này tập trung phân tích các tác phẩm thể hiện vấn đề sinh thái đất đai và số phận người phụ nữ như là nạn nhân trong khủng hoảng môi trường; mối tương giao sinh thái của cặp đôi biểu tượng “đất – phụ nữ” trong việc thể hiện tiếng nói nữ quyền.


Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

Mô tả thế giới tự nhiên vùng đồng bằng Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư tập trung nhiều hơn cả vào hai yếu tố đất và nước. Chúng thường xuất hiện sóng đôi, nhưng không ở thế cân đối hài hòa, mà xâm lấn nhau, cho thấy một bức tranh sinh thái mất cân bằng. Đất – nơi bám trụ yên lành, nơi sản sinh nguồn thực phẩm chính cho con người – bị tàn phá, hủy hoại bởi sông nước. Đất hiện ra lúc thì trong thế chông chênh: một dải bên sông chưa biết khi nào bị dòng sông thình lình nuốt chửng (Sông), lúc lại là vùng nắng cháy khô hạn (Mưa mây), những cánh đồng chết, đồng khô, đồng hoang, đồng ngập mặn (Cánh đồng bất tận)… Không chỉ chịu sự xâm lấn của sông nước, đất còn chịu sự tàn phá của con người. Đất lúc này mang hình hài những ngôi làng và những cánh đồng tổn thương vì chính sách chia cắt, chuyển đổi (Đất). Ở nghĩa biểu tượng, nước gắn liền với hình tượng người đàn ông. Nước chảy trôi, dễ đổi dạng đổi hình, có khi là dòng sông tưởng êm dịu mà hóa hung dữ (Sông, Nhổ quán), có khi là biển (Những biển), có khi là mưa đến đi bất tận (Mưa mây). Những người đàn ông cũng như nước chẳng gắn bó mãi một nơi nào, người vì mưu sinh (Sông, Mưa mây), người vì sở thích phiêu bạt (Nhổ quán, Sông), người vì mê nhân tình (Những biển, Đất), kẻ khác lại vì hận tình (Cánh đồng bất tận). Ở chiều ngược lại, đất là biểu tượng của người phụ nữ. Mối quan hệ tương đồng giữa phụ nữ và đất đai rất chặt chẽ: đất bị hủy hoại, tàn phá, người phụ nữ chịu tổn hại, đau thương. Trong truyện ngắn Mưa mây, khi hệ sinh thái tự nhiên của làng bị hủy diệt, Ngò ngay lập tức chịu đau khổ. Lì lùa đàn trâu rong ruổi khắp chốn tìm nguồn nước mát và rơm rạ. Ngò chẳng bao giờ biết được chồng mình đang ở đâu. Cô vò võ chờ đợi. Thưa dần những lần Lì về nhà. Ân ái cũng chóng vánh như bước chân ra đi vội vã của Lì, bỏ lại cô một mình nằm nghe cô đơn, nhủ rằng đó có phải là lần về cuối cùng của chồng. Nương trong Cánh đồng bất tận cũng là nạn nhân của sự biến đổi sinh thái. Nhiều năm tháng rong ruổi trên những cánh đồng hoang, đồng chết, đồng cạn đã làm cô và em trai (Điền) trở thành những đứa trẻ “dị tật” tâm hồn (sợ hãi con người, nói chuyện với động vật, từ chối sự hoàn thiện về giới). Điền – là em, là bạn, là người đàn ông duy nhất bảo vệ cô – cũng ra đi, bỏ lại Nương cô đơn với cánh đồng. Để rồi đến cuối cùng, trên cánh đồng chết hoang vắng dấu chân người, Nương bị cưỡng hiếp. Trong Sông, cuộc sống bám đất khốn khó khi mọi thứ đều bị sông cuốn trôi. Những người đàn bà trong truyện Đất cũng chịu số phận của kẻ bị bỏ rơi như vậy. Bao lần lịch sử chia cắt, giày xéo cánh đồng là bấy nhiêu lần má đấu tranh, nhọc nhằn, tủi hờn. Kỉ niệm của những người phụ nữ (má) về ngôi nhà, ruộng đồng “hết thảy đều cay đắng”.

Tuy nhiên, những phụ nữ không chỉ là nạn nhân của môi trường, họ còn là chủ thể chủ động thực hành kinh nghiệm sinh thái, thể hiện quyền năng giới, nhất là quyền năng cải hóa sự sống. Cuộc sống cơ hàn, buồn tủi của kẻ bị bỏ lại là điều kiện cho những người phụ nữ nhận thức giá trị của đất, thấu hiểu và sống giao hòa với đất. Từ vị trí nạn nhân, họ bám trụ, bảo vệ đất, hồi sinh vùng đất chết, trở thành chủ nhân quyền uy của môi trường sống mới. Nhiều sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện tiếng nói nữ quyền sinh thái: tiếng nói về kinh nghiệm sinh tồn, tình yêu thương, sự bảo bọc.

Tiếng nói nữ quyền sinh thái, trước hết thể hiện ở việc coi trọng đất đai của những người phụ nữ, trân quý những sản vật từ đất. Trong truyện Đất, Nguyễn Ngọc Tư lập hồ sơ xứ sở (Nhơn Thành) không phải về lịch sử hay địa lí mà về những kiếp người sống và giữ đất – những người phụ nữ mang tên “má”. Họ đều thấm thía cảnh “không có đất thì mình không là cái gì hết” và vô cùng yêu thương trân trọng đất, “coi đất là sẹo rún của mình, lấy ngoi ngóp bùn sình và mùa màng bất tận làm vui”. Họ đấu tranh giữ đất không chỉ cho sự sinh tồn của bản thân mà còn để bảo vệ quyền sinh sôi của tự nhiên, nhất là khi chúng đang thai nghén. Những đứa con của má (nhân vật “em”, chị gái và anh Hai) điên cuồng lăn xả vào đoàn xe kéo chính quyền điều đến chà xát cánh đồng lúa đang ôm đòng đòng. Tinh thần đấu tranh như thế mãi mãi những người không thương quý đất, không yêu tự nhiên sẽ chẳng thể nào hiểu được. “Vào buổi sáng bầy xe ủi kéo tới chà đi xát lại đám lúa no đòng đòng, họ không nghĩ rằng lúa đang chửa. Những thứ đang thai nghén đều đáng được sống, ít nhất cho tới lúc sinh nở xong.” Những kẻ không biết yêu thương, đau xót sản vật (lúa) mà đất ban cho thì không thể nào có cuộc sống tốt. Bà nội rút ra triết lí ấy từ mấy chục năm kinh nghiệm gắn bó với đất đai ruộng đồng, dạy cho những kẻ từng đốt giạ lúa chín vàng, lấy đất điền chủ. “Sau này, khi một nửa trong số họ mò đến nhà xin được cầm cố đất, bà nội chửi như tạt nước.” “Mấy người tàn mạt cũng phải, làm ruộng mà đốt lúa, đất nào tha thứ cho thứ phản phúc đó.”

Tiếng nói nữ quyền sinh thái còn là tiếng nói yêu thương con người, bao dung của những phụ nữ bám đất, giữ đất. Họ đón nhận tất cả những người đến nhà mình, xứ mình dù thế nào đi chăng nữa. Trong truyện Đất, má lớn (tức bà nội) chịu đựng nỗi đau bị phụ tình. Chồng má bỏ đi biền biệt rồi một ngày kia đột ngột đưa nhân tình về ăn nằm giữa nhà, đòi giành đất. Má đau lòng nhưng vẫn đón nhận họ và vẫn tiếp tục chăm chỉ làm lụng quản lí mấy chục công ruộng, cung phụng thực phẩm cho họ. Sau này, má lại đón nhận con trai riêng của chồng và nhân tình, cưu mang chăm sóc cậu như khách đến nhà. Lớn lên, cậu học được bài học bám đất, yêu đất từ má. Nhờ tình yêu đất đai đồng ruộng, tình cảm họ kết nối gần gụi như ruột thịt. Trong Cánh đồng bất tận, khi má của Nương và Điền bỏ đi, dấu hiệu sự sống mặt đất cũng dần biến mất. Đất như chẳng có hồn, không thực hiện được sứ mệnh nuôi dưỡng, bảo bọc muôn loài. Những cánh đồng khô hạn, hoang hoải trải dài vô tận. Hai đứa trẻ mất mẹ, cô đơn trưởng thành, cô đơn giữa những cánh đồng chết. Sự sống chỉ cho tín hiệu hồi sinh khi Nương, sau lần bị cưỡng hiếp, có ý nghĩ trở thành mẹ, sẽ dừng chân sống cố định một nơi chốn, nuôi dưỡng chăm sóc con đầy đủ, cho con đến trường, trải rộng tâm từ, xóa nỗi oán hận. Biết bao người đàn bà bên sông Di (Sông), sống đời như má con Bế, bám dải đất chông chênh ven sông lâu chừng nào hay chừng đó. Họ đợi chờ những người đàn ông của đời mình – những người theo sông bỏ xứ đi tự thuở xa xôi nào chẳng còn nhớ nổi tháng năm – bỗng trở về.

Cuối cùng, tiếng nói nữ quyền sinh thái là tiếng nói đòi hỏi xác lập bản thể cá nhân. Những người phụ nữ bám đất đều là người giàu tình yêu thương và đều chịu chung thân phận buồn tủi, đau thương. Họ như đã hóa linh hồn đất, không có cả hình hài, tên gọi riêng. Trong truyện Đất, nhân vật “em” có tên riêng nhưng anh Hai – người bị bệnh động kinh hết mực bảo vệ cô em gái như thể nợ vướng líu với cô ở một kiếp sống nào đấy – không nhớ tên thật của em, mãi mãi gọi em bằng má. Anh gọi em gái là má vì những thứ thuộc hình hài của em: tiếng nói, gương mặt – như má – làm anh yên lòng, thôi hoảng sợ, thôi đập đầu vào tường, thôi bứt tóc, thôi gào réo mà nhoẻn miệng cười tươi. Em vì bảo vệ đất mà bị cưỡng hiếp. Anh Hai vì bảo vệ em mà lăn mình vào xe ủi đất đang chà xát lúa để ngăn cản bọn đàn ông đang quằn quại trên em. Tác phẩm khép lại với nỗi băn khoăn của “em” về sinh kiếp. Đấy là lúc “em” thức nhận ý nghĩa bản thể cá nhân mình và bao người phụ nữ: “Một cơn gió độc nào đó thổi qua, mang theo cơn lạnh buốt lên đỉnh đầu. Bà nội nói không có đất thì mình không là cái gì hết. Nhưng khoảnh khắc này, em nhận ra, không có tên mình không là gì, không là ai, và không còn gì hết. Mình có hay không, ma hay người…” Đến lúc, những người phụ nữ không chỉ thụ động thực hiện sứ mệnh giới, sứ mệnh sinh thái tự nhiên, mà còn cần xác lập vị trí, bản sắc riêng mình: cái tên của riêng cho mình, một đời sống riêng cho mình.

Có thể nói, dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, đất đã vượt thoát khỏi bản chất vật chất thuần túy để trở thành một biểu tượng nghệ thuật giàu sức quyến rũ, tượng trưng cho người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung. Người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là trung tâm của các hệ giá trị cơ bản của con người, là sự hồi sinh, tình yêu, sự thịnh vượng, sự giải thoát… Thiết nghĩ, ý nghĩa nhân bản sâu sắc đó là một trong những lí do đưa Nguyễn Ngọc Tư lên một vị trí trang trọng của văn học Nam Bộ đương đại.

 Lê Thị Gấm/VNQĐ

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm