TIN TỨC

Giá của đam mê

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-16 07:14:06
mail facebook google pos stwis
966 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Những năm học Trường Viết văn Nguyễn Du ở 103 Đê La Thành, Hà Nội, chúng tôi hay ra quán nước chè chén của anh chị Duẩn, Diệp trước cổng trường Đại học Văn hóa uống nước. Lâu ngày thành thân, Trúc Phương được anh chị quý nhất; mỗi lần cần về nhà lấy đồ hay đi đâu vắng, lại nấn ná chờ hắn ra để nhờ trông giúp quán. Và Trúc Phương đặt cuốn sách sang một bên, ngồi ghế ông bà chủ rót nước, lấy thuốc lá cho khách như thật

Nhà văn Trúc Phương

Một lần, quán của anh chị bị đám thanh niên địa phương quậy phá. Nghe anh chị trần tình, Phương nổi máu Lục Vân Tiên, lận lưng khẩu colt 45(*) rồi rủ tôi cùng hai anh bạn nữa đến từng nhà các đối tượng ở phố Giảng Võ cạnh trường truy vấn. Biết là nguy hiểm, tôi vẫn đi theo để xem thằng bạn từng một thời là “Đội trưởng đội Trinh sát vũ trang an ninh thị xã Vĩnh Long” làm ăn thế nào. Thấy hắn khi đến trước mỗi địa chỉ, đàng hoàng gõ cửa nhà, sau đó gọi tên chỉ mặt từng thanh niên (hoặc bố mẹ, nếu thanh niên đó đi vắng) ra nói điều phải trái. Tưởng thế nào cũng có phản ứng, nhưng lạ là nghe Phương nói xong, mấy thanh niên đứa nào cũng len lét như rắn mồng năm, còn bố mẹ chúng thì “Cảm ơn chú!”. Hỏi: “Vì sao mày nói có người nghe, đe có kẻ sợ vậy?” Hắn cười, lát sau buông câu lửng lơ: “Chừng đó thì đã nhằm nhò gì!”. Câu nói nhẹ hều ấy không giúp tôi sáng ra điều gì, nhưng sau này khi biết những chuyện động trời hắn đã từng làm trong chiến tranh, thì thấy quả là danh bất hư truyền.

Dạo ấy, cuối năm 1971, Ban An ninh thị xã Vĩnh Long với quân số hơn một trăm năm mươi người cho các bộ phận, trải qua chiến trận còn lại bốn người (trong đó có hắn) lành lặn, được bố trí tạm vào Đội phòng thủ Thị xã ủy để trú thân. Nơi đóng quân của Đội phòng thủ Thị xã ủy bị địch càn. Phó Bí thư Thị đoàn, một cô gái trẻ bị địch bắn chết trên sông. Vớt được xác cô lên thì đêm đã khuya, hắn được phân công ở lại trông xác. Thương người đồng chí trẻ tuổi hy sinh, Phương lấy chiếc màn duy nhất của mình ra căng trùm lên xác cô gái để ngăn muỗi, còn hắn nằm ngoài. Được một lúc, muỗi kéo đến nhiều như trấu đốt hắn. Không chịu được, hắn liền chui vào màn nằm ké cạnh xác cô gái đánh một giấc ngon lành cho tới tận khi mọi người mang quan tài về… Chuyện sau đó trong một cuộc họp Chị bộ bất thường do anh Phó Chủ nhiệm Văn phòng, người có thâm thù với hắn tổ chức, kiểm điểm hắn về tội “vô kỷ luật, đánh giặc để mượn bàn tay giặc phá hoại căn cứ”. Hắn lập tức lôi từ túi quần ra trái lựu đạn da láng xanh cáu, dằn mạnh lên bàn như đặt cái nhạo rượu chuẩn bị mời mọi người nhậu, mặt đanh lại, mắt sáng quắc, nghiến răng, nghiêm mặt nói: “Tôi cho mấy anh biết, tôi vào Đảng bằng máu của mình chứ không có vay mượn máu của thằng nào. Hãy nhớ cho đấy! Khai trừ hả? Tôi thách mấy anh đó. Giỏi thì các anh cứ việc khai trừ Đảng tôi đi. Khai trừ đi!...”

Đám đông nhốn nháo hốt hoảng tháo chạy khỏi phòng họp, người nào chưa thoát kịp thì ngồi thụp xuống bàn. Riêng anh Phó Chủ nhiệm Văn phòng, kẻ chủ trương tranh thủ lúc đồng chí Bí thư Thị xã ủy đi công tác vắng, họp chi bộ để làm thịt hắn, thoắt cái mất dạng, bỏ cả tập bút và cái túi zết kiểu cách lại trên ghế. Khi đồng chí Bí thư Thị xã ủy trở về, chi bộ tổ chức họp lại. Hắn nghiêm túc nhận thiếu sót và được phân công nhiệm vụ mới là bám vô vùng kềm sát nách thị xã – nơi hắn từng bám trụ - để xây dựng cơ sở quần chúng, lực lượng Biệt động trong lòng nội ô. Từ đó một năm hắn chỉ họp chi bộ ghép với cánh Thị đoàn, Tuyên huấn vài lần, làm việc với cán bộ trên xuống vài lượt, còn thì tự lãnh đạo một chi bộ tại chỗ với mấy tổ quần chúng, nòng cốt cách mạng dưới hệ thống tổ chức, chỉ huy trực tiếp của chính mình. Và hắn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập những chiến công chói lọi, được biểu dương trong toàn tỉnh ngày tổng kết chiến tranh…

“Lấy liều mạng làm căn bản!”, nhận xét vui của chúng tôi về Trúc Phương. Nhưng sống trong đời không thể có một người luôn liều mạng, không sợ ai, không ngán một cái gì. Trúc Phương dù “Đánh quen trăm trận, sức dư… dăm người” vẫn có gót chân Asin, đó là nỗi sợ… bị địch bắt sống. Hỏi vì sao? Vì lo không giữ được khí tiết! Nên chi trong các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc, hắn dành sự kính trọng đặc biệt cho những người sa vào tay giặc mà vẫn vững chí, bền gan. Còn với riêng mình, luôn luôn Phương giữ lại hai viên đạn cuối cùng, để khi lâm trận, nếu tình thế bị địch bắt xuất hiện thì… tự sát cho chắc ăn. Ấy thế mà rồi hai viên đạn cuối cùng ấy cũng có lần hắn không giữ được, phải đem ra xài. Đấy là chuyện ngày 20/4/1969, Phương cùng bốn đồng đội hợp pháp trong nội ô Vĩnh Long thực hiện khống chế tên Trưởng chi cảnh sát thị xã, một ác ôn khét tiếng, bằng trận phục kích táo bạo kẻ địch trên đường về nhà lúc hắn vừa bước xuống xe. Phương tuyên bố:

“Ông sẽ được thả về khi trả lời hết những câu hỏi, thực hiện hết những yêu cầu của bọn tôi”.

Nói lời và giữ lời. Xong việc, các cơ sở nội thành chia tay, trở về vị trí hợp pháp của mình. Một mình Trúc Phương đưa tên Trưởng chi vào vùng lõm Giải phóng còn lại, sau khi giặc đã bình định, chiếm đóng. Đi được một quãng thì bọn địch truy đuổi phía sau. Khi giặc nồ tới, Phương buộc phải nổ súng và lôi tên Trưởng chi chạy trên ruộng (nói thêm, Phương bắn súng rất giỏi. Chuột chạy trên dây, hắn vẫy phát, rơi liền). Bắn hết 14 viên đạn colt 12 ly. Không còn đạn, Phương bắt tên Trưởng chi quỳ xuống thề thực hiện những điều cách mạng yêu cầu, sau đó tha mạng. Tên Trưởng chi không dám tin vào sự thật, cứ lấm lét nhìn lại phía sau, được mươi bước thì vụt chạy về phía bọn lính vừa la í ới ban nãy. Trúc Phương sau đó cũng lặng lẽ bước đi trong mịt mù bóng đêm trở về căn cứ.

“Nếu tên Trưởng chi thực hiện lời hứa của hắn, đồng chí được điểm 10. Nếu hắn không thực hiện thì đồng chí sẽ phạm tội thả cọp về rừng và sẽ có tội với Nhân dân” - Bí thư Thị xã ủy nói sau khi nghe hắn báo cáo công việc.

“Tôi xin bảo lãnh bằng tính mạng của mình” - Phương trả lời người chỉ huy không chút đắn đo.

Cũng may (mà cũng chẳng phải may), mọi yêu cầu của cách mạng về sau đều được tên Trưởng chi cảnh sát thực hiện. Nói chẳng phải may, bởi để tên Trưởng chi giữ chữ tín, những ngày tiếp theo Đội Trinh sát vũ trang an ninh thị xã Vĩnh Long dưới sự chỉ huy của Phương còn phải thực hiện thêm vài nghiệp vụ nữa.

Mùa Xuân 1975, Phương theo một cánh quân về giải phóng Vĩnh Long. Hay tin, bà con xã Long Thanh truyền tai nhau rồi sáng 29/4 ùn ùn kéo đến nhà ông bà Hai để chúc mừng. Bất ngờ một anh chàng ngụy binh người làng rã ngũ trở về, rút trong cạp quần ra một trái lựu đạn ném vô giữa đám đông. Nhanh như cắt, hắn chụp lấy ôm trước ngực, nằm đè lên. Ai nấy đứng tim, tắc thở. Nhưng không có tiếng nổ nào. Thì ra trong lúc vội vàng, anh chàng ngụy binh hàng xóm quên (hay cố tình quên?) rút chốt. May mắn ấy của hắn thuộc loại có một không hai. Và sự may mắn vẫn đi theo để phù hộ hắn, khi sau đó một ngày, ngày 1-5 hắn về tiếp quản thị xã Vĩnh Long. Có một sĩ quan Ngụy ngoan cố không ra trình diện. Ông này có một cây súng nhỏ như cây viết Paker chuyên dùng để ám sát, rất lợi hại. Phương xung phong đi vận động ông sĩ quan. Nhiều người ái ngại, nghĩ hòa bình rồi, đi, chết uổng. Vậy mà nghe Phương nói chuyện một hồi, ông sĩ quan Ngụy đã lấy súng trao Phương rồi vui vẻ ra trình diện. Và Phương sống, trở về.

…“Nói có người nghe”, nhờ vậy những năm tháng hoạt động bí mật ở Vĩnh Long, hắn được nhiều bà con cô bác tin yêu, bảo vệ. Nhưng tin yêu hắn vô điều kiện lại là cô gái lạ đến từ thành phố cảng Hải Phòng tên Nguyễn Thị Minh Nhất, sinh viên Khoa Nga trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội khóa 1976 - 1980. Chả là sau 1975, Phương được cấp trên cho đi học Trường Tuyên huấn Trung ương ở Hà Nội để đào tạo cán bộ nguồn. Trường Tuyên huấn Trung ương và trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ cùng đóng trên địa bàn huyện Từ Liêm, cách nhau một cánh đồng. Ngày nghỉ Phương hay vào đó chơi, tìm đồng hương. Một lần như thế, Phương gặp Nhất. Tình yêu “thiên lôi đánh” giữa hai người nảy sinh. Minh Nhất là một cô gái đẹp. Mà người đẹp như thơ hay, không in báo này, in báo khác, chẳng sợ bị cho vào lai cảo (**). Nhưng cô chọn Trúc Phương, cái anh chàng đi dép râu, đội mũ tai bèo, bận bộ quần áo Tô Châu màu cỏ úa trong lần đầu gặp cô. Nhìn hắn lúc đó, không hiểu sao cô bỗng nhớ đến hình ảnh anh bộ đội trong thơ Chính Hữu: “…Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…” Tính hắn lại phóng khoáng, sẵn sàng tiêu đến đồng tiền cuối cùng trong túi. Khi không còn biết đào đâu ra tiền thì bán nhẫn, bán quần áo, bán tất tật những gì có thể bán được. Bấy lâu Nhất sống trong môi trường mà trong đó mọi người luôn tích cốc phòng cơ, cách sống không cần biết ngày mai của Trúc Phương hút cô như nam châm hút sắt. Về phía Trúc Phương, Minh Nhất xinh đẹp, học thức, là sự bổ sung trọn vẹn cho những gì hắn khao khát. Từ đó không gì có thể ngăn hai người đến với nhau. Họ cưới nhau năm 1980 khi Minh Nhất ra trường và Trúc Phương đang học năm thứ nhất trường Viết văn Nguyễn Du. Lễ thành hôn được tổ chức trong căn phòng tranh tre nứa lá của Trường Viết văn Nguyễn Du, tưởng không gì có thể đạm bạc hơn.

Sau đám cưới, cô dâu cầm quyết định phân công công tác đi thẳng vào Trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ dạy tiếng Nga, chú rể ở lại Hà Nội tiếp tục việc dùi mài kinh sử. Khát kiến thức như khát nước, những tháng năm ở Hà Nội, hắn không bỏ phí chút thời gian nào cho việc học. Đọc hết sách mình thích ở Thư viện trường, Thư viện Quốc gia, vào cả Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội tìm sách đọc thêm. Ngoài những buổi lên lớp, sinh hoạt ngoại trú, xem phim theo chế độ, thời gian còn lại hắn dành cả cho việc đọc trong thư viện, đi thăm, làm quen với các văn nghệ sĩ danh tiếng của đất Thăng Long. Nhiều người bảo hắn điên chữ…

Khóa I trường Viết văn Nguyễn Du kết thúc, Trúc Phương như người đang bay trên mây bỗng đột ngột rơi xuống mặt đất khi trở về “máng cỏ”, nơi đã ra đi. Đây là lúc nỗi đời cay cực giơ nanh vuốt. Trên lý thuyết, hai vợ chồng công chức, có lương, có sổ gạo, tem phiếu theo tiêu chuẩn thì không thể khổ được. Nhưng đất nước thời bao cấp, “Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt” khiến không chỉ vợ chồng Trúc Phương – Minh Nhất khổ, mà tất cả đều khổ. Nhưng Nhất – Phương xem ra khổ hơn. Phương thời chiến mê đánh giặc, thời bình mê chữ nghĩa văn chương, tính trọng nghĩa khinh tài, sinh ra là để làm anh hùng. Nay phải lo những việc tỉ mỉ của cuộc sống gia đình, như chó bị nhốt trong cũi, quay phía nào cũng đụng vách ngăn. Với nhiều người, chạy chọt đó đây để được thêm cân đường, lạng thịt cho con trong bữa cơm hàng ngày là một việc bình thường; với hắn, khó ngang đánh giặc và hèn thì như địt thúi. Vì thế, dù đã rất cố gắng vợ chồng hắn vẫn không sao bằng được người. Và thế là cô nữ sinh Minh Nhất xinh đẹp ngày nào, phải hai lần đằng vân giá vũ sang Nga với đủ thứ lỉnh kỉnh mang theo để tha về những áo bay, bàn là, nồi áp suất, quạt tai voi, dây may so… mà đời sống vẫn không thấy khá lên.

Thời gian trôi, cuộc cờ người thay đổi. Những bạn bè thời trận mạc và bạn đồng môn của hắn ở trường Nguyễn Ái Quốc ngày nào, mấy mươi năm sau một số người trở thành yếu nhân đất nước, như Hai Nghĩa (Trương Vĩnh Trọng) - Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ, Mai Ái Trực – Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường. Yếu nhân cấp tỉnh có Trần Đình Thành – Bí thư tỉnh ủy Đồng Nai, Bé Sáu (Trương Văn Sáu) – Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Long... Còn hắn vẫn vậy. Biết làm sao được khi để thỏa mãn đam mê viết văn, hắn đã thẳng thừng từ chối mọi chức vụ. Một cái chức con con là Chủ tịch Hội Văn Nghệ Vĩnh Long cũng không chịu nhận, bỏ chạy lên Sài Gòn làm anh Trưởng phòng cấp sở, yên tâm lấy sở đoản nuôi sở trường. Mà chuẩn bị cho ngày giải phóng, chức Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Vĩnh Long, Phó Ban Tuyên huấn thị xã Vĩnh Long, chuyên “Nói cho đồng bào tôi nghe” của hắn oách chẳng thua ai trong đám bạn bè từ chinh chiến đi ra. Bù lại hắn có gần hai mươi đầu sách, gồm 9 tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn, 2 trường ca. Đó là những: Cây sầu đâu sinh đôi (tiểu thuyết),1985; Bóng biển (tiểu thuyết), 1985, Bên dòng sông thơ mộng (tiểu thuyết), 1986; Bình minh trong đêm (tiểu thuyết),1986; Cây bời lời bông trắng (tiểu thuyết), 1987; Chân dung của đất (tiểu thuyết), 1988; Swai Chanti và nước mắt (tiểu thuyết), 1989… Đặc biệt, “Mẹ - Đất nước – Lưu dân”, tập trường ca dài hơn hai vạn tám ngàn câu thơ viết về phương Nam với một cảm xúc tràn trề xuất bản năm 2016, mà theo hắn, là “Tác phẩm cuối đời trong niềm hạnh phúc vô bờ giữa những tháng ngày tưởng chừng không thể…” khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư lưỡi.

Chao ôi, cái giá của đam mê!

------

* Sau 1975, cán bộ miền Nam ra Bắc học tập, công tác; nhiều người - không hiểu sao – vẫn được mang theo súng.

** Chế Lan Viên: “Thơ hay như người đẹp, đi đâu về đâu cũng lấy được chồng”.

4-2018

(Bài đăng Tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam số 29 (3548) ra ngày 21-7-2018)

Mời truy cập kỷ yếu nhà văn TRÚC PHƯƠNG.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm