TIN TỨC

Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-13 15:20:22
mail facebook google pos stwis
656 lượt xem

Hà Thanh Vân

Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.

Thi sĩ Bùi Giáng - Tranh họa sĩ Trần Thế Vĩnh

NHỮNG NGƯỜI TÌNH MÃI MÃI THƠ TRẺ

Nói đến Bùi Giáng là phải nói đến những bài thơ tình dành tặng cho nhiều người phụ nữ có danh và cả vô danh. Có người ông quen biết, cũng có người ông chỉ biết đến trên sách vở, phim ảnh, nhưng vẫn thành mối tình si. Người ta nhắc nhiều đến mối tình si của ông dành cho kỳ nữ Kim Cương của sân khấu kịch nói, ni sư Thích Nữ Trí Hải (Tôn Nữ Phùng Khánh), những bài thơ ông dành tặng cho nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du, cho cô đào điện ảnh nước Mỹ Mộng Lỗ (Marilyn Monroe)… Nhưng còn vô số những nhân vật được ông gọi thẳng tên trong thơ như: Em Mọi, giai nhân, thiếu phụ, sơn nữ, thôn nữ, hoàng hậu… Xuyên suốt trong thơ của Bùi Giáng là hình ảnh người nữ với mọi sắc thái, mọi nhân dạng, nhưng tình yêu dành cho họ luôn là vĩnh viễn và vô biên. Trong thơ Bùi Giáng, họ là những người tình không có tuổi tác, được ông yêu với một tình yêu thơ trẻ. Với Bùi Giáng, cuộc đời chính là tình yêu, và đã yêu thì phải yêu đến muôn đời, cho dù tình yêu đó là trong thực tại hay chỉ còn trong ký ức.

Thấy em mộng tưởng vuông tròn

Trùng khơi ký ức hãy còn như nguyên

Về sau ắt sẽ muộn phiền

Trở thành vô lượng mây triền miên trôi

Tình yêu mộng mị muôn đời

Ấy là chung cục thế thời phục sinh

(Tình yêu III)

Và dù không tròn vẹn trong bất cứ tình yêu nào, cũng như giữa trời và đất nên chẳng bao giờ gặp nhau, Bùi Giáng vẫn khẳng định thêm một lần về sự vĩnh viễn của tình yêu, của nhớ thương.

Dậy từ cổ mộ ca sương

Trời xa đất mãi nên thường nhớ nhau

(Cố sử mai sau)

NGƯỜI ĐÀN ÔNG CỦA LANG THANG CÕI THẾ VÀ LÊNH ĐÊNH CÕI MỘNG

Bùi Giáng viết về bản thân mình có lẽ cũng nhiều như những tình yêu đi qua đời ông hay những tình yêu mà ông mơ tưởng. Cuộc đời của Bùi Giáng là một cuộc đời của con người đi qua cõi nhân gian này như một cơn mộng mị chiêm bao. Bùi Giáng quê ở Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông bắt đầu bước vào nghiệp văn chương từ rất sớm. Năm ông 21 tuổi, những tác phẩm đầu tay của Bùi Giáng đã được in trong sách giáo khoa, như “Một vài nhận xét về Bà huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm” (1957),… nhưng ông bắt đầu nổi tiếng sau tập thơ “Lá hoa cồn” (1963). Từ đó Bùi Giáng nổi danh trong giới văn chương miền Nam như một thi sĩ “dị kỳ”. Ngoài biệt danh “trung niên thi sĩ”, Bùi Giáng còn một loạt biệt danh và bút danh khác đều rất độc đáo như: Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Monroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…

Không chỉ làm thơ, ngòi bút của Bùi Giáng còn “lang thang” ở nhiều địa hạt văn học. Bùi Giáng đã dịch vở kịch “Hamlet” của đại văn hào Anh William Shakespeare, tác phẩm “Hoàng tử bé” của nhà văn Pháp Saint Exupéry, tác phẩm “Ngộ nhận” của nhà triết học hiện sinh kiêm nhà văn Pháp Albert Camus, các tác phẩm “Khung cửa hẹp” và “Hòa âm điền dã” của nhà văn Pháp André Gide… Không chỉ dịch sách phương Tây, Bùi Giáng còn dịch cả truyện kiếm hiệp. Không chỉ là dịch giả, Bùi Giáng còn biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như “Tư tưởng hiện đại”, “Thi ca tư tưởng”, “Lễ hội tháng ba”, “Con đường ngã ba”, “Con đường phản kháng”, “Đi vào cõi thơ”…

Tuy nhiên Bùi Giáng được người ta biết đến nhiều nhất với tư cách nhà thơ. Trong văn chương, Bùi Giáng đi theo một con đường riêng, không giống với bất cứ nhà thơ, nhà văn nào. Đó là cách nhìn về chính bản thân mình và về cuộc đời khiến cho những độc giả có cảm tưởng ông đang sống trong một cõi riêng, một cõi siêu thực! Cuộc đời của Bùi Giáng không chỉ rong chơi trên những trang chữ, mà ông còn rong chơi ở cõi đời trần thế này. Ông sống như là ông viết, cô độc giữa đám đông bạn bè, cuồng phóng giữa chốn phù hoa,

Một mình gánh nặng lẻ loi

Hai mình chung gánh cũng loi lẻ mình

Đã mang số kiếp lênh đênh

Thở than cho lắm vẫn chênh vênh đời

Thôi thì một khóc mười cười

Dẫu sao đã vỡ bình rồi bấy thân.

(Trần thế bách niên)

LẮT LẺO LIÊU XIÊU CÂU CHỮ

Giọng thơ của Bùi Giáng rất dễ nhận biết. Ông làm thơ giống như đùa. Nhà văn kiêm dịch giả Bửu Ý có viết một cuốn sách về Bùi Giáng là “Bùi Giáng một đời thơ” (Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức & Nhà xuất bản Dân Trí, 2023), trong đó có nhận xét: “Thử tưởng tượng bạn quẳng đến cho Bùi Giáng một bó câu, hay trời cao mưa móc xuống một hộc chữ cái, hay nàng thơ cung tặng sa số vần điệu, Bùi Giáng từ đó sẽ sắp xếp lại thành thơ, những câu thơ không ai ngờ, những vần điệu đầy tung hứng.” Người ta thường hay nhắc nhiều đến những câu thơ mà chỉ có thể là của Bùi Giáng:

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa

Bỏ người yêu bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con

(Mắt buồn)

Hay những câu thơ mà gần như độc giả nào yêu thơ của Bùi Giáng cũng thuộc nằm lòng:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

Tóc xanh dù có phai màu

Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này

Có ngàn năm đứng ngó cây cối và

Có trời mây xuống lân la

Bên bờ nước có bóng ta bên người

(Nguyên Xuân)

Tung hứng câu chữ, Bùi Giáng cũng tung hứng cuộc đời của chính ông qua những chuỗi ngày lang thang mà ông tự nhận là “điên rực rỡ” (theo Lê Văn Nghĩa, “Văn học Sài Gòn 1954 – 1975: Những chuyện bên lề”, NXB Tổng hợp TPHCM, 2020). Cuộc đời của Bùi Giáng là một cuộc đời nhất quán trong văn chương, trong phong cách viết. Ông xuất hiện trên văn đàn và chiếm một vị trí nổi bật trong đó, chỉ bằng lối viết như trò chơi. Trong văn học nghệ thuật có một lý thuyết nghiên cứu gọi là lý thuyết trò chơi và có thể áp dụng điều này khi tìm hiểu về văn chương của Bùi Giáng. Sự chơi trong ngôn từ văn chương và cách sống khiến cho con người ta bước ra khỏi cuộc sống thường nhật đầy những giới hạn, ranh giới, định kiến, để bước vào một thế giới tuy là ở trong thực tại nhưng cũng có không gian, thời gian riêng với những quy luật riêng. Ở đó con người chơi để được là chính mình, sống với bản ngã của mình, không che đậy, giấu giếm. Con người chơi để phát hiện lại chính mình, tìm kiếm sự tồn tại của chính mình và làm cho sự tồn tại ấy có ý nghĩa.

Bùi Giáng đã sống và rong chơi hết mình. Để rồi nhờ vào sự rong chơi ấy, văn chương của ông luôn mới mẻ và có giá trị với chúng ta, những độc giả cùng thời với ông và những thời sau ông.

Một trang cũ kỹ

Mới lại một lần

Linh hồn giản dị

Bờ cõi thanh tân

Em sẽ đi đâu

Với đời đi mất

Tờ giấy phai màu

Hồng kia có thật

(Màu thiên thanh mở)

DI CẢO THƠ BÙI GIÁNG – MẠCH NGUỒN CHẢY MÃI

“Trăm năm vui buồn” là tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng ra mắt độc giả kể từ khi ông qua đời cách đây 25 năm, do Thư quán Hạnh phúc thực hiện và NXB Văn học ấn hành vào tháng 9.2023 vừa qua. Những người thực hiện tập di cảo này cho biết đây là một nén nhang lòng để tưởng nhớ đến thi sĩ Bùi Giáng. Thi tập “Trăm năm vui buồn” được thi sĩ Bùi Giáng làm vào năm 1994.

Trước đó, 13 tập di cảo thơ của Bùi Giáng đã lần lượt được xuất bản kể từ khi ông qua đời. Có thể kể đến một số tập di cảo thơ như tập thứ 9 mang tên “Ký ức” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2010), tập thứ 10 mang tên “Bèo mây bờ bến” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2011), tập thứ 11 mang tên “Tâm sự tuổi già” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2011)…

Sinh thời thi sĩ Bùi Giáng làm nhiều bài thơ. Tuy nhiên do cá tính và hoàn cảnh sống, nên ông để lại nhiều bài thơ mà chưa kịp ra mắt độc giả. Từ nhiều năm nay, nhờ vào công sức của gia đình, bạn bè, thân hữu và những người yêu thơ Bùi Giáng, lần lượt các tập di cảo của ông đều đặn ra đời, giữ cho dòng mạch thơ ông luôn chảy mãi. Qua đó chúng ta thấy được tấm lòng yêu thơ của nhiều độc giả, nhưng cũng cho thấy sức làm việc phi thường, “xuất khẩu thành thơ” của Bùi Giáng.

Tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng mang tên “Trăm năm vui buồn” gồm 91 bài thơ. Tập thơ vẫn là một phong cách quen thuộc của Bùi Giáng, gồm những câu chữ tưng tửng, những lời lẽ vung vẩy chữ nghĩa, chao đảo giữa cõi thực và mơ của riêng ông. Các nhà thơ thường có một cõi mơ của riêng mình. Nhưng thơ Bùi Giáng thì khác lạ hơn ở chỗ ông đưa người thật, việc thật vào cõi mơ. Trong tập thơ “Trăm năm vui buồn”, có nhiều bài thơ ông viết về Nguyễn Du, nối tiếp mạch đề tài có thể nói là xuyên suốt đời thơ của ông. Dường như Bùi Giáng luôn cảm thấy bản thân mình có mối liên hệ với Nguyễn Du trên phương diện tinh thần. Ông viết những bài thơ “Tố Như tặng vật”, “Thúy Kiều”, “Từ đầu tới cuối Tố Như”, “Nguyễn Du – Phạm Quý Thích – Hoạn Thư”… Trong tập thơ cũng có bài thơ dành cho Lưu Trọng Lư, cho nữ sĩ Ngọc Quế và nhiều bài thơ không đề. Chủ đề chính của tập thơ “Trăm năm vui buồn” vẫn là những sắc thái tình cảm, trong đó vẫn là những nhân vật quen thuộc như anh và em, trẫm và nàng. Nhân vật người nữ vẫn là nhân vật mà Bùi Giáng luôn nâng niu bằng những từ ngữ đẹp đẽ nhất.

“Giữa trưa em đến thình lình

Đem bao vẻ ngọc lung linh đá vàng

Đổ vào một trận mê man

Tình yêu có lẽ thênh thang lạ lùng

Anh về suy nghĩ mông lung

Nàng Tiên có một mà não nùng có hai”

(Một nàng tiên)

Bùi Giáng chủ yếu làm thơ lục bát và những bài thơ trong tập thơ “Trăm năm vui buồn” cũng phần nhiều là lục bát với lối gieo vần theo kiểu rất Bùi Giáng, nghịch dị và dắt dây chữ nghĩa, phảng phất hương xưa cũ của văn chương một thuở.

“Đi về cổ lục nhìn xem

Phong tình tâm sự trước đèn dầu lu

Mai sau sông biển tít mù

Từ bây giờ tới tạc thù tương lai

Ruộng nương Nương Tử dặm dài

Mừng Xuân tao ngộ di hài Thu Đông

Ngày mai cá sóng phiêu bồng

Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi

Đi về với gió phù du

Mở trang Trí Huệ cho mù sa bay”

(Tặng em)

Đặc biệt trong “Trăm năm vui buồn” còn có thơ tự do, có thơ thất ngôn bát cú, cho thấy những sắc thái khác trong thơ Bùi Giáng.

“Thập thành công lực đã tung ra

Chỉ chưởng vèo bay khắp sơn hà

Lệnh chỉ rước chầu vu quy tới

Hỏa bài tiền lộ ruổi mau qua

Tưởng chừng như mộng mị là thế

Đâu biết rằng mơ tưởng ấy là

Anh định tìm em thăm viếng chút

Nào ngờ em chẳng chịu chơi a!”

(Lệnh chỉ)

Bùi Giáng đi qua cõi đời này như một cuộc rong chơi. Rong chơi trên những nẻo đường phố xá, rong chơi trong miền chữ nghĩa phù du lắt léo đảo điên. Nhưng dù rong chơi, Bùi Giáng vẫn gửi hết tâm tình, gửi hết nỗi niềm với con người, với cuộc đời vào từng câu chữ. Có lẽ vì vậy mà thơ của ông đọc nhẹ như không mà ấn tượng lại nặng đến nao lòng. “Trăm năm vui buồn” là chuyện của đời người trăm năm với muôn vàn sắc thái và khép lại tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng, độc giả yêu thơ ông lại tiếp tục mong chờ một tập di cảo thơ thứ 15.

H.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm