TIN TỨC

Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-13 15:18:57
mail facebook google pos stwis
1941 lượt xem

Hà Thanh Vân

Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.

Thi sĩ Bùi Giáng - Tranh họa sĩ Trần Thế Vĩnh

NHỮNG NGƯỜI TÌNH MÃI MÃI THƠ TRẺ

Nói đến Bùi Giáng là phải nói đến những bài thơ tình dành tặng cho nhiều người phụ nữ có danh và cả vô danh. Có người ông quen biết, cũng có người ông chỉ biết đến trên sách vở, phim ảnh, nhưng vẫn thành mối tình si. Người ta nhắc nhiều đến mối tình si của ông dành cho kỳ nữ Kim Cương của sân khấu kịch nói, ni sư Thích Nữ Trí Hải (Tôn Nữ Phùng Khánh), những bài thơ ông dành tặng cho nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du, cho cô đào điện ảnh nước Mỹ Mộng Lỗ (Marilyn Monroe)… Nhưng còn vô số những nhân vật được ông gọi thẳng tên trong thơ như: Em Mọi, giai nhân, thiếu phụ, sơn nữ, thôn nữ, hoàng hậu… Xuyên suốt trong thơ của Bùi Giáng là hình ảnh người nữ với mọi sắc thái, mọi nhân dạng, nhưng tình yêu dành cho họ luôn là vĩnh viễn và vô biên. Trong thơ Bùi Giáng, họ là những người tình không có tuổi tác, được ông yêu với một tình yêu thơ trẻ. Với Bùi Giáng, cuộc đời chính là tình yêu, và đã yêu thì phải yêu đến muôn đời, cho dù tình yêu đó là trong thực tại hay chỉ còn trong ký ức.

Thấy em mộng tưởng vuông tròn

Trùng khơi ký ức hãy còn như nguyên

Về sau ắt sẽ muộn phiền

Trở thành vô lượng mây triền miên trôi

Tình yêu mộng mị muôn đời

Ấy là chung cục thế thời phục sinh

(Tình yêu III)

Và dù không tròn vẹn trong bất cứ tình yêu nào, cũng như giữa trời và đất nên chẳng bao giờ gặp nhau, Bùi Giáng vẫn khẳng định thêm một lần về sự vĩnh viễn của tình yêu, của nhớ thương.

Dậy từ cổ mộ ca sương

Trời xa đất mãi nên thường nhớ nhau

(Cố sử mai sau)

NGƯỜI ĐÀN ÔNG CỦA LANG THANG CÕI THẾ VÀ LÊNH ĐÊNH CÕI MỘNG

Bùi Giáng viết về bản thân mình có lẽ cũng nhiều như những tình yêu đi qua đời ông hay những tình yêu mà ông mơ tưởng. Cuộc đời của Bùi Giáng là một cuộc đời của con người đi qua cõi nhân gian này như một cơn mộng mị chiêm bao. Bùi Giáng quê ở Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông bắt đầu bước vào nghiệp văn chương từ rất sớm. Năm ông 21 tuổi, những tác phẩm đầu tay của Bùi Giáng đã được in trong sách giáo khoa, như “Một vài nhận xét về Bà huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm” (1957),… nhưng ông bắt đầu nổi tiếng sau tập thơ “Lá hoa cồn” (1963). Từ đó Bùi Giáng nổi danh trong giới văn chương miền Nam như một thi sĩ “dị kỳ”. Ngoài biệt danh “trung niên thi sĩ”, Bùi Giáng còn một loạt biệt danh và bút danh khác đều rất độc đáo như: Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Monroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…

Không chỉ làm thơ, ngòi bút của Bùi Giáng còn “lang thang” ở nhiều địa hạt văn học. Bùi Giáng đã dịch vở kịch “Hamlet” của đại văn hào Anh William Shakespeare, tác phẩm “Hoàng tử bé” của nhà văn Pháp Saint Exupéry, tác phẩm “Ngộ nhận” của nhà triết học hiện sinh kiêm nhà văn Pháp Albert Camus, các tác phẩm “Khung cửa hẹp” và “Hòa âm điền dã” của nhà văn Pháp André Gide… Không chỉ dịch sách phương Tây, Bùi Giáng còn dịch cả truyện kiếm hiệp. Không chỉ là dịch giả, Bùi Giáng còn biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như “Tư tưởng hiện đại”, “Thi ca tư tưởng”, “Lễ hội tháng ba”, “Con đường ngã ba”, “Con đường phản kháng”, “Đi vào cõi thơ”…

Tuy nhiên Bùi Giáng được người ta biết đến nhiều nhất với tư cách nhà thơ. Trong văn chương, Bùi Giáng đi theo một con đường riêng, không giống với bất cứ nhà thơ, nhà văn nào. Đó là cách nhìn về chính bản thân mình và về cuộc đời khiến cho những độc giả có cảm tưởng ông đang sống trong một cõi riêng, một cõi siêu thực! Cuộc đời của Bùi Giáng không chỉ rong chơi trên những trang chữ, mà ông còn rong chơi ở cõi đời trần thế này. Ông sống như là ông viết, cô độc giữa đám đông bạn bè, cuồng phóng giữa chốn phù hoa,

Một mình gánh nặng lẻ loi

Hai mình chung gánh cũng loi lẻ mình

Đã mang số kiếp lênh đênh

Thở than cho lắm vẫn chênh vênh đời

Thôi thì một khóc mười cười

Dẫu sao đã vỡ bình rồi bấy thân.

(Trần thế bách niên)

LẮT LẺO LIÊU XIÊU CÂU CHỮ

Giọng thơ của Bùi Giáng rất dễ nhận biết. Ông làm thơ giống như đùa. Nhà văn kiêm dịch giả Bửu Ý có viết một cuốn sách về Bùi Giáng là “Bùi Giáng một đời thơ” (Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức & Nhà xuất bản Dân Trí, 2023), trong đó có nhận xét: “Thử tưởng tượng bạn quẳng đến cho Bùi Giáng một bó câu, hay trời cao mưa móc xuống một hộc chữ cái, hay nàng thơ cung tặng sa số vần điệu, Bùi Giáng từ đó sẽ sắp xếp lại thành thơ, những câu thơ không ai ngờ, những vần điệu đầy tung hứng.” Người ta thường hay nhắc nhiều đến những câu thơ mà chỉ có thể là của Bùi Giáng:

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa

Bỏ người yêu bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con

(Mắt buồn)

Hay những câu thơ mà gần như độc giả nào yêu thơ của Bùi Giáng cũng thuộc nằm lòng:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

Tóc xanh dù có phai màu

Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này

Có ngàn năm đứng ngó cây cối và

Có trời mây xuống lân la

Bên bờ nước có bóng ta bên người

(Nguyên Xuân)

Tung hứng câu chữ, Bùi Giáng cũng tung hứng cuộc đời của chính ông qua những chuỗi ngày lang thang mà ông tự nhận là “điên rực rỡ” (theo Lê Văn Nghĩa, “Văn học Sài Gòn 1954 – 1975: Những chuyện bên lề”, NXB Tổng hợp TPHCM, 2020). Cuộc đời của Bùi Giáng là một cuộc đời nhất quán trong văn chương, trong phong cách viết. Ông xuất hiện trên văn đàn và chiếm một vị trí nổi bật trong đó, chỉ bằng lối viết như trò chơi. Trong văn học nghệ thuật có một lý thuyết nghiên cứu gọi là lý thuyết trò chơi và có thể áp dụng điều này khi tìm hiểu về văn chương của Bùi Giáng. Sự chơi trong ngôn từ văn chương và cách sống khiến cho con người ta bước ra khỏi cuộc sống thường nhật đầy những giới hạn, ranh giới, định kiến, để bước vào một thế giới tuy là ở trong thực tại nhưng cũng có không gian, thời gian riêng với những quy luật riêng. Ở đó con người chơi để được là chính mình, sống với bản ngã của mình, không che đậy, giấu giếm. Con người chơi để phát hiện lại chính mình, tìm kiếm sự tồn tại của chính mình và làm cho sự tồn tại ấy có ý nghĩa.

Bùi Giáng đã sống và rong chơi hết mình. Để rồi nhờ vào sự rong chơi ấy, văn chương của ông luôn mới mẻ và có giá trị với chúng ta, những độc giả cùng thời với ông và những thời sau ông.

Một trang cũ kỹ

Mới lại một lần

Linh hồn giản dị

Bờ cõi thanh tân

Em sẽ đi đâu

Với đời đi mất

Tờ giấy phai màu

Hồng kia có thật

(Màu thiên thanh mở)

DI CẢO THƠ BÙI GIÁNG – MẠCH NGUỒN CHẢY MÃI

“Trăm năm vui buồn” là tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng ra mắt độc giả kể từ khi ông qua đời cách đây 25 năm, do Thư quán Hạnh phúc thực hiện và NXB Văn học ấn hành vào tháng 9.2023 vừa qua. Những người thực hiện tập di cảo này cho biết đây là một nén nhang lòng để tưởng nhớ đến thi sĩ Bùi Giáng. Thi tập “Trăm năm vui buồn” được thi sĩ Bùi Giáng làm vào năm 1994.

Trước đó, 13 tập di cảo thơ của Bùi Giáng đã lần lượt được xuất bản kể từ khi ông qua đời. Có thể kể đến một số tập di cảo thơ như tập thứ 9 mang tên “Ký ức” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2010), tập thứ 10 mang tên “Bèo mây bờ bến” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2011), tập thứ 11 mang tên “Tâm sự tuổi già” (NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM ấn hành năm 2011)…

Sinh thời thi sĩ Bùi Giáng làm nhiều bài thơ. Tuy nhiên do cá tính và hoàn cảnh sống, nên ông để lại nhiều bài thơ mà chưa kịp ra mắt độc giả. Từ nhiều năm nay, nhờ vào công sức của gia đình, bạn bè, thân hữu và những người yêu thơ Bùi Giáng, lần lượt các tập di cảo của ông đều đặn ra đời, giữ cho dòng mạch thơ ông luôn chảy mãi. Qua đó chúng ta thấy được tấm lòng yêu thơ của nhiều độc giả, nhưng cũng cho thấy sức làm việc phi thường, “xuất khẩu thành thơ” của Bùi Giáng.

Tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng mang tên “Trăm năm vui buồn” gồm 91 bài thơ. Tập thơ vẫn là một phong cách quen thuộc của Bùi Giáng, gồm những câu chữ tưng tửng, những lời lẽ vung vẩy chữ nghĩa, chao đảo giữa cõi thực và mơ của riêng ông. Các nhà thơ thường có một cõi mơ của riêng mình. Nhưng thơ Bùi Giáng thì khác lạ hơn ở chỗ ông đưa người thật, việc thật vào cõi mơ. Trong tập thơ “Trăm năm vui buồn”, có nhiều bài thơ ông viết về Nguyễn Du, nối tiếp mạch đề tài có thể nói là xuyên suốt đời thơ của ông. Dường như Bùi Giáng luôn cảm thấy bản thân mình có mối liên hệ với Nguyễn Du trên phương diện tinh thần. Ông viết những bài thơ “Tố Như tặng vật”, “Thúy Kiều”, “Từ đầu tới cuối Tố Như”, “Nguyễn Du – Phạm Quý Thích – Hoạn Thư”… Trong tập thơ cũng có bài thơ dành cho Lưu Trọng Lư, cho nữ sĩ Ngọc Quế và nhiều bài thơ không đề. Chủ đề chính của tập thơ “Trăm năm vui buồn” vẫn là những sắc thái tình cảm, trong đó vẫn là những nhân vật quen thuộc như anh và em, trẫm và nàng. Nhân vật người nữ vẫn là nhân vật mà Bùi Giáng luôn nâng niu bằng những từ ngữ đẹp đẽ nhất.

“Giữa trưa em đến thình lình

Đem bao vẻ ngọc lung linh đá vàng

Đổ vào một trận mê man

Tình yêu có lẽ thênh thang lạ lùng

Anh về suy nghĩ mông lung

Nàng Tiên có một mà não nùng có hai”

(Một nàng tiên)

Bùi Giáng chủ yếu làm thơ lục bát và những bài thơ trong tập thơ “Trăm năm vui buồn” cũng phần nhiều là lục bát với lối gieo vần theo kiểu rất Bùi Giáng, nghịch dị và dắt dây chữ nghĩa, phảng phất hương xưa cũ của văn chương một thuở.

“Đi về cổ lục nhìn xem

Phong tình tâm sự trước đèn dầu lu

Mai sau sông biển tít mù

Từ bây giờ tới tạc thù tương lai

Ruộng nương Nương Tử dặm dài

Mừng Xuân tao ngộ di hài Thu Đông

Ngày mai cá sóng phiêu bồng

Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi

Đi về với gió phù du

Mở trang Trí Huệ cho mù sa bay”

(Tặng em)

Đặc biệt trong “Trăm năm vui buồn” còn có thơ tự do, có thơ thất ngôn bát cú, cho thấy những sắc thái khác trong thơ Bùi Giáng.

“Thập thành công lực đã tung ra

Chỉ chưởng vèo bay khắp sơn hà

Lệnh chỉ rước chầu vu quy tới

Hỏa bài tiền lộ ruổi mau qua

Tưởng chừng như mộng mị là thế

Đâu biết rằng mơ tưởng ấy là

Anh định tìm em thăm viếng chút

Nào ngờ em chẳng chịu chơi a!”

(Lệnh chỉ)

Bùi Giáng đi qua cõi đời này như một cuộc rong chơi. Rong chơi trên những nẻo đường phố xá, rong chơi trong miền chữ nghĩa phù du lắt léo đảo điên. Nhưng dù rong chơi, Bùi Giáng vẫn gửi hết tâm tình, gửi hết nỗi niềm với con người, với cuộc đời vào từng câu chữ. Có lẽ vì vậy mà thơ của ông đọc nhẹ như không mà ấn tượng lại nặng đến nao lòng. “Trăm năm vui buồn” là chuyện của đời người trăm năm với muôn vàn sắc thái và khép lại tập di cảo thơ thứ 14 của Bùi Giáng, độc giả yêu thơ ông lại tiếp tục mong chờ một tập di cảo thơ thứ 15.

H.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm