TIN TỨC

Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-03-11 11:32:21
mail facebook google pos stwis
1491 lượt xem

PHAN NGỌC QUANG

Bên cạnh nhiều tập thơ riêng của từng cá nhân, mấy năm gần đây một số tác giả trong Hội Nhà văn TP.HCM đã cho ra mắt bạn đọc những “đứa con thơ” bằng hình thức mới lạ, gây nhiều sự chú ý; đó là những tác phẩm thơ in chung. Nếu nói không quá thì hầu hết người đi tiên phong trong luồng gió đổi mới này không ai khác mà chính là cánh chị em phụ nữ.

Cách đây mấy năm tôi vinh dự được tác giả tặng tập thơ của 2 tác giả nữ đình đám trong làng văn chương của đất Sài Gòn – Gia Định xưa mang tên Huệ Triệu – Trần Mai Hường. Tập thơ nhỏ nhắn dễ thương và điều quan trọng là ở đây có thêm một bản hòa âm đồng diệu giữa hai tâm hồn thơ của đôi tác giả “song kiếm hợp bích”. Đó cũng là khuôn mặt riêng được tiếp nối phong cách trong tác phẩm thơ Lục bát của ba tác giả nữ Đặng Nguyệt Anh, Huệ Triệu và Trần Mai Hường. Đến đây tập thơ đã có thế đứng vững chãi của kiềng 3 chân mà nữ thi nhân Đặng Nguyệt Anh là người chị cả.

Trên con đường đi tay nắm tay đó, phải nói nữ nhà thơ Trần Mai Hường là người miệt mài nhất. Không ngại lạ quen, không sợ sự so bì, những bài thơ của chị luôn đi tìm người bạn đồng hành tuy có khi không cùng tiếng nói về đề tài nhưng đều có mẫu số chung về giọng điệu và cách mở cánh cửa tâm hồn. Người đi trước mở đường cho thế hệ đi sau, rất vui mừng là trong năm 2023 có thêm 2 nhà thơ nữ khác là Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan cho ra đời tác phẩm Hoàng hôn chín cũng bằng lối in chung. Có thể nói đây là 2 gương mặt không hề xa lạ mà còn rất thân quen với anh em trong Hội và bạn yêu thơ vì trước đó 2 chị đã cho ra mắt các tập thơ in riêng của mình. Ở cái tuổi không còn trẻ nữa khi nắng cuộc đời ở lúc xế chiều và vườn nhân thế đã sum suê quả ngọt. Tôi tự hỏi, phải chăng vì lý do đó mà đứa con chung của họ có tên Hoàng hôn chín?  


Các nhà thơ Võ Miên Trường - Triệu Kim Loan và bìa tập thơ in chung.

 Ban đầu cứ nghĩ đây là tên 1 bài thơ trong tập của 2 chị giống như nhiều cuốn sách khác nhưng tôi tìm mãi không có. Phải đến khi dừng tay lại ở trang 68, người đọc mới bắt gặp được bài Ấm áp tuổi hoàng hôn của Triệu Kim Loan. Mượn cảm xúc trong 1 đêm cuối năm mà cụ thể là đêm Noel 24/12, tác giả ngồi đối diện với cuộc đời mình để tự tình khi bóng chiều đang tới: “Chiều loang tím tự tình qua mắt phố/ Giọt mùa đông dan díu nắng Sài thành”. Những hình ảnh “chiều tím, hoàng hôn, gió mùa đông” không còn nằm trong quỹ đạo của thời khắc nữa mà nó đã hóa thân thành cột mốc lớn trong cuộc đời. Hoàng hôn của đất trời có nỗi buồn, hoàng hôn của cuộc đời cũng không ngoại lệ. Nhưng đó là nỗi buồn êm dịu, đẹp đẽ và rất trong sáng của 1 tâm hồn không gợn chút mây đen: “Phố về đêm sao ngọt ngào quá đỗi/ Đôi lứa dập dìu sánh bước bên nhau”. Con người có cái nhìn lạc quan nên mỗi câu thơ cũng có con mắt rõi vào tươi sáng: “Đêm Giáng sinh đan tay mình dạo phố/ Dạ thảnh thơi, ấm áp tuổi hoàng hôn”. Trong câu thơ, hơi ấm neo giữ mãi và đi suốt cuộc đời nên hạnh phúc tràn ngập như cây trái chín mọng giữa vườn thương.

Ở đâu cũng thế, thơ Triệu Kim Loan không đao to búa lớn mà luôn thủ thỉ với những hình ảnh thân thương, trìu mến thả vào tâm hồn người đọc theo từng ngọn gió ngọt ngào vị quê hương, vị cuộc đời dung dị. Đó cũng là ẩn số cảm xúc mà chúng ta có thể giải được hệ phương trình cuộc đời trong bài thơ Ký ức thời gian. Không đi theo thể lục bát hay ngũ ngôn quen thuộc của chị, nên Ký ức thời gian có 1 tiếng nói riêng khó lẫn vào đâu được. 4 khổ thơ là 4 biện pháp so sánh để nói về thời gian. Dù là ngọn gió hay cánh buồm, đoàn tàu chuyển bánh, hạt bụi, tất cả đều làm cho thời gian không hề đứng yên. Đó cũng là tâm trạng khó giãi bày trong sự nuối tiếc, muộn màng khi con người đang đứng bên kia dốc cuộc đời mình. Nhưng không vì thế mà bức tranh thời gian buồn tẻ ảm đạm mà ngược lại rất tươi sáng và đa sắc; tưởng như không bao giờ phai màu để rồi tan biến trong nuối tiếc.

Giọng thơ nữ từ cổ chí kim, hầu hết đều nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng không thiếu suy tư, trăn trở. Ở Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan cũng thế. Các bài Thầm em, Chợt tôi, Điều em, Giấu lửa tim mình…là những khúc nhạc du dương của nỗi lòng với từng đợt sóng ngầm dưới đáy đại dương nhưng vẫn mềm mại, duyên dáng từng con sóng vỗ trên mặt nước hiền hòa. Hoàng hôn của cuộc đời không chỉ chín trong sắc màu mà còn chín cả trong suy tư và độ lượng.

Nghe nói Võ Miên Trường đã ra được 7 tập thơ trong 10 năm gần đây. Rõ ràng sức viết của chị rất sung mãn. Những điều quan trọng là chất lượng cũng song hành với số lượng. Tôi đã từng tham dự buổi ra mắt Nhặt sợi buồn thêu chữ và Nhánh buồn trổ hoa trong đó đáng chú ý có tập thơ sau của chị được in chung với Trần Mai Hường năm 2019. Dù mặc chiếc áo nào hay đứng ở đâu, thơ Võ Miên Trường luôn tình ý trong từng câu chữ và giàu chất suy tưởng, đa chiều. Ngay từ khi đọc bài thơ thứ nhất và cầm trên tay tập thơ đầu tiên tôi đã có nhận xét đó chạy trong đầu. Thơ chị không hề dễ dãi trong việc dùng từ mà nói cách khác chị đã có những cách viết táo bạo, sáng tạo trong việc tạo ra các cụm từ mới lạ đôi khi làm người đọc sửng sốt nhưng không hề gượng ép hay sáo. Thơ Võ Miên Trường còn nghiêng về chiêm nghiệm, mượn cái cụ thể để nói cái to lớn nhưng lại rất dễ hiểu, có những câu làm cho người khác giật mình. Với phong cách đó thơ chị không cần độ dài nhưng vẫn có chiều sâu, biết bao nhiêu ý tứ nằm trong đôi ba chữ: “Em vừa cạn chén đàn bà/ Thì thầm sóng cuộn lời yêu; Cạn rằm trăng khất thực đau/ Em – bình nguyên phủ nhiệm màu vào xanh” (Đêm huyền vi). Thơ chị thiên về miêu tả nhưng không tả thực mà tả gợi, cái gợi làm nên cánh cửa mở ra chiều suy tư và đôi khi thảng thốt: “Trở mình chạm vào giấc xanh/ Giọt sương vỡ tiếng nghe rằm gọi trăng” (Đêm suông).

Những câu thơ mượn cái cụ thể để nói điều trừu tượng và ngược lại mượn chuyện mơ hồ để vẽ nên điều thiết thực: “Lở - bồi dòng chảy phù vân/ Ta tìm nhau giữa đời ngần ngại mơ” (Một người – một tôi). Phép liên tưởng cũng được nhà thơ nữ họ Võ dùng trong mỗi ý, mỗi tứ thơ: “Em về đóng cửa cài then/ Ru mình ru cả nhân duyên – lặng thầm…” (Ru mình). Phép liên tưởng đó còn tạo ra sự bất ngờ trong cách chuyển ý: “Mời trăng say cạn chén sầu/ Lênh loang em rót đục ngầu cuộc ta”. Có thể nói thơ chị là sự dung hòa giữa cái thực và cái ảo, giữa điều cao xa và bình dị, giữa cái dễ hiểu và khó tìm. Người đọc nhạy cảm với thơ sẽ tìm thấy sự đồng điệu tâm hồn chứ không phải kiểu thi phú nằm trong “nhà kho” theo trường phái siêu thực đến mức gần như đánh đố.

Ở Hoàng hôn chín có 1 đề tài mà chị chú tâm nhiều, rất khác với những tập trước đó là tình cảm gia đình. Những người thân xuất hiện trong thơ chị không còn chung chung mà đó là 1 con người cụ thể: “Mẹ ngồi cong dấu hỏi buồn/ Thương bàn tay mỏi đếm mòn tháng năm” (Nụ cười mẹ đủ xóa phiền muộn con). Chỉ miêu tả đôi bàn tay cũng đã hiện lên nỗi vất vả tảo tần trong cuộc đời thân mẫu. Câu thơ: “Cù lao chín chữ mẹ hiền/ Nụ cười mẹ đủ xóa phiền muộn con” đã đại diện đủ tấm lòng người con đối với đấng sinh thành của toàn bài thơ. Đó là thực tại, là mong ước và cũng là vinh cữu của tình mẫu tử mong được đền đáp, tri ân.

Không hiểu sao ở bài Nhớ cha chị lại viết theo thể thơ văn xuôi? Chắc chắn Võ Miên Trường có dụng ý riêng khi nhắc đến người đàn ông mạnh mẽ, trụ cột trong gia đình. Bài thơ như 1 tác phẩm văn tế thương nhớ vong linh người đã khuất nhưng tràn đầy ký ức thương yêu tình phụ tử.

Võ Miên Trường luôn chăm chút thơ tự khúc, tự sự. Điều này cũng thấy rõ trong Hoàng hôn chín. Bài thơ cho ngày sinh có nhiều câu hay dù đề tài không mới, ngay từ câu tự bạch đầu tiên đã có sự phá cách trong từ vựng: “Vỡ trời rơi xuống một tôi/ Tháng Mười một sóng gọi mời mồng Năm”. Dù nói vòng quanh tuổi đời nhưng rồi đôi chân thơ cũng dừng bước trong ngôi nhà thân yêu của mình với tấm lòng hiếu đễ: “Trăng dậy thì loang tràn tay/ Và lưng mẹ cứ mỗi ngày vồng thêm”. Khúc tâm tình đó cứ nối tiếp từ bài thơ này qua bài thơ khác như con sóng vỗ mãi mà chẳng bao giờ đến tới bờ riêng tây.

Nhờ đi dự Ngày hội thơ Nguyên tiêu năm 2024 mà tôi tình cờ “nhặt” được tập thơ của 2 vị nữ. Đọc thấy hay nên viết vội vài dòng đúng dịp Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3. Như vậy cũng có ý nghĩa chứ. Mong những câu thơ của chị em ta mãi đẹp và luôn tỏa nắng vàng cho cuộc đời dù hạ tàn hay đông muộn.

Quận 7, ngày Quốc tế Phụ nữ 2024,

P.N.Q

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm