TIN TỨC

Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-03-11 11:32:21
mail facebook google pos stwis
1444 lượt xem

PHAN NGỌC QUANG

Bên cạnh nhiều tập thơ riêng của từng cá nhân, mấy năm gần đây một số tác giả trong Hội Nhà văn TP.HCM đã cho ra mắt bạn đọc những “đứa con thơ” bằng hình thức mới lạ, gây nhiều sự chú ý; đó là những tác phẩm thơ in chung. Nếu nói không quá thì hầu hết người đi tiên phong trong luồng gió đổi mới này không ai khác mà chính là cánh chị em phụ nữ.

Cách đây mấy năm tôi vinh dự được tác giả tặng tập thơ của 2 tác giả nữ đình đám trong làng văn chương của đất Sài Gòn – Gia Định xưa mang tên Huệ Triệu – Trần Mai Hường. Tập thơ nhỏ nhắn dễ thương và điều quan trọng là ở đây có thêm một bản hòa âm đồng diệu giữa hai tâm hồn thơ của đôi tác giả “song kiếm hợp bích”. Đó cũng là khuôn mặt riêng được tiếp nối phong cách trong tác phẩm thơ Lục bát của ba tác giả nữ Đặng Nguyệt Anh, Huệ Triệu và Trần Mai Hường. Đến đây tập thơ đã có thế đứng vững chãi của kiềng 3 chân mà nữ thi nhân Đặng Nguyệt Anh là người chị cả.

Trên con đường đi tay nắm tay đó, phải nói nữ nhà thơ Trần Mai Hường là người miệt mài nhất. Không ngại lạ quen, không sợ sự so bì, những bài thơ của chị luôn đi tìm người bạn đồng hành tuy có khi không cùng tiếng nói về đề tài nhưng đều có mẫu số chung về giọng điệu và cách mở cánh cửa tâm hồn. Người đi trước mở đường cho thế hệ đi sau, rất vui mừng là trong năm 2023 có thêm 2 nhà thơ nữ khác là Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan cho ra đời tác phẩm Hoàng hôn chín cũng bằng lối in chung. Có thể nói đây là 2 gương mặt không hề xa lạ mà còn rất thân quen với anh em trong Hội và bạn yêu thơ vì trước đó 2 chị đã cho ra mắt các tập thơ in riêng của mình. Ở cái tuổi không còn trẻ nữa khi nắng cuộc đời ở lúc xế chiều và vườn nhân thế đã sum suê quả ngọt. Tôi tự hỏi, phải chăng vì lý do đó mà đứa con chung của họ có tên Hoàng hôn chín?  


Các nhà thơ Võ Miên Trường - Triệu Kim Loan và bìa tập thơ in chung.

 Ban đầu cứ nghĩ đây là tên 1 bài thơ trong tập của 2 chị giống như nhiều cuốn sách khác nhưng tôi tìm mãi không có. Phải đến khi dừng tay lại ở trang 68, người đọc mới bắt gặp được bài Ấm áp tuổi hoàng hôn của Triệu Kim Loan. Mượn cảm xúc trong 1 đêm cuối năm mà cụ thể là đêm Noel 24/12, tác giả ngồi đối diện với cuộc đời mình để tự tình khi bóng chiều đang tới: “Chiều loang tím tự tình qua mắt phố/ Giọt mùa đông dan díu nắng Sài thành”. Những hình ảnh “chiều tím, hoàng hôn, gió mùa đông” không còn nằm trong quỹ đạo của thời khắc nữa mà nó đã hóa thân thành cột mốc lớn trong cuộc đời. Hoàng hôn của đất trời có nỗi buồn, hoàng hôn của cuộc đời cũng không ngoại lệ. Nhưng đó là nỗi buồn êm dịu, đẹp đẽ và rất trong sáng của 1 tâm hồn không gợn chút mây đen: “Phố về đêm sao ngọt ngào quá đỗi/ Đôi lứa dập dìu sánh bước bên nhau”. Con người có cái nhìn lạc quan nên mỗi câu thơ cũng có con mắt rõi vào tươi sáng: “Đêm Giáng sinh đan tay mình dạo phố/ Dạ thảnh thơi, ấm áp tuổi hoàng hôn”. Trong câu thơ, hơi ấm neo giữ mãi và đi suốt cuộc đời nên hạnh phúc tràn ngập như cây trái chín mọng giữa vườn thương.

Ở đâu cũng thế, thơ Triệu Kim Loan không đao to búa lớn mà luôn thủ thỉ với những hình ảnh thân thương, trìu mến thả vào tâm hồn người đọc theo từng ngọn gió ngọt ngào vị quê hương, vị cuộc đời dung dị. Đó cũng là ẩn số cảm xúc mà chúng ta có thể giải được hệ phương trình cuộc đời trong bài thơ Ký ức thời gian. Không đi theo thể lục bát hay ngũ ngôn quen thuộc của chị, nên Ký ức thời gian có 1 tiếng nói riêng khó lẫn vào đâu được. 4 khổ thơ là 4 biện pháp so sánh để nói về thời gian. Dù là ngọn gió hay cánh buồm, đoàn tàu chuyển bánh, hạt bụi, tất cả đều làm cho thời gian không hề đứng yên. Đó cũng là tâm trạng khó giãi bày trong sự nuối tiếc, muộn màng khi con người đang đứng bên kia dốc cuộc đời mình. Nhưng không vì thế mà bức tranh thời gian buồn tẻ ảm đạm mà ngược lại rất tươi sáng và đa sắc; tưởng như không bao giờ phai màu để rồi tan biến trong nuối tiếc.

Giọng thơ nữ từ cổ chí kim, hầu hết đều nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng không thiếu suy tư, trăn trở. Ở Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan cũng thế. Các bài Thầm em, Chợt tôi, Điều em, Giấu lửa tim mình…là những khúc nhạc du dương của nỗi lòng với từng đợt sóng ngầm dưới đáy đại dương nhưng vẫn mềm mại, duyên dáng từng con sóng vỗ trên mặt nước hiền hòa. Hoàng hôn của cuộc đời không chỉ chín trong sắc màu mà còn chín cả trong suy tư và độ lượng.

Nghe nói Võ Miên Trường đã ra được 7 tập thơ trong 10 năm gần đây. Rõ ràng sức viết của chị rất sung mãn. Những điều quan trọng là chất lượng cũng song hành với số lượng. Tôi đã từng tham dự buổi ra mắt Nhặt sợi buồn thêu chữ và Nhánh buồn trổ hoa trong đó đáng chú ý có tập thơ sau của chị được in chung với Trần Mai Hường năm 2019. Dù mặc chiếc áo nào hay đứng ở đâu, thơ Võ Miên Trường luôn tình ý trong từng câu chữ và giàu chất suy tưởng, đa chiều. Ngay từ khi đọc bài thơ thứ nhất và cầm trên tay tập thơ đầu tiên tôi đã có nhận xét đó chạy trong đầu. Thơ chị không hề dễ dãi trong việc dùng từ mà nói cách khác chị đã có những cách viết táo bạo, sáng tạo trong việc tạo ra các cụm từ mới lạ đôi khi làm người đọc sửng sốt nhưng không hề gượng ép hay sáo. Thơ Võ Miên Trường còn nghiêng về chiêm nghiệm, mượn cái cụ thể để nói cái to lớn nhưng lại rất dễ hiểu, có những câu làm cho người khác giật mình. Với phong cách đó thơ chị không cần độ dài nhưng vẫn có chiều sâu, biết bao nhiêu ý tứ nằm trong đôi ba chữ: “Em vừa cạn chén đàn bà/ Thì thầm sóng cuộn lời yêu; Cạn rằm trăng khất thực đau/ Em – bình nguyên phủ nhiệm màu vào xanh” (Đêm huyền vi). Thơ chị thiên về miêu tả nhưng không tả thực mà tả gợi, cái gợi làm nên cánh cửa mở ra chiều suy tư và đôi khi thảng thốt: “Trở mình chạm vào giấc xanh/ Giọt sương vỡ tiếng nghe rằm gọi trăng” (Đêm suông).

Những câu thơ mượn cái cụ thể để nói điều trừu tượng và ngược lại mượn chuyện mơ hồ để vẽ nên điều thiết thực: “Lở - bồi dòng chảy phù vân/ Ta tìm nhau giữa đời ngần ngại mơ” (Một người – một tôi). Phép liên tưởng cũng được nhà thơ nữ họ Võ dùng trong mỗi ý, mỗi tứ thơ: “Em về đóng cửa cài then/ Ru mình ru cả nhân duyên – lặng thầm…” (Ru mình). Phép liên tưởng đó còn tạo ra sự bất ngờ trong cách chuyển ý: “Mời trăng say cạn chén sầu/ Lênh loang em rót đục ngầu cuộc ta”. Có thể nói thơ chị là sự dung hòa giữa cái thực và cái ảo, giữa điều cao xa và bình dị, giữa cái dễ hiểu và khó tìm. Người đọc nhạy cảm với thơ sẽ tìm thấy sự đồng điệu tâm hồn chứ không phải kiểu thi phú nằm trong “nhà kho” theo trường phái siêu thực đến mức gần như đánh đố.

Ở Hoàng hôn chín có 1 đề tài mà chị chú tâm nhiều, rất khác với những tập trước đó là tình cảm gia đình. Những người thân xuất hiện trong thơ chị không còn chung chung mà đó là 1 con người cụ thể: “Mẹ ngồi cong dấu hỏi buồn/ Thương bàn tay mỏi đếm mòn tháng năm” (Nụ cười mẹ đủ xóa phiền muộn con). Chỉ miêu tả đôi bàn tay cũng đã hiện lên nỗi vất vả tảo tần trong cuộc đời thân mẫu. Câu thơ: “Cù lao chín chữ mẹ hiền/ Nụ cười mẹ đủ xóa phiền muộn con” đã đại diện đủ tấm lòng người con đối với đấng sinh thành của toàn bài thơ. Đó là thực tại, là mong ước và cũng là vinh cữu của tình mẫu tử mong được đền đáp, tri ân.

Không hiểu sao ở bài Nhớ cha chị lại viết theo thể thơ văn xuôi? Chắc chắn Võ Miên Trường có dụng ý riêng khi nhắc đến người đàn ông mạnh mẽ, trụ cột trong gia đình. Bài thơ như 1 tác phẩm văn tế thương nhớ vong linh người đã khuất nhưng tràn đầy ký ức thương yêu tình phụ tử.

Võ Miên Trường luôn chăm chút thơ tự khúc, tự sự. Điều này cũng thấy rõ trong Hoàng hôn chín. Bài thơ cho ngày sinh có nhiều câu hay dù đề tài không mới, ngay từ câu tự bạch đầu tiên đã có sự phá cách trong từ vựng: “Vỡ trời rơi xuống một tôi/ Tháng Mười một sóng gọi mời mồng Năm”. Dù nói vòng quanh tuổi đời nhưng rồi đôi chân thơ cũng dừng bước trong ngôi nhà thân yêu của mình với tấm lòng hiếu đễ: “Trăng dậy thì loang tràn tay/ Và lưng mẹ cứ mỗi ngày vồng thêm”. Khúc tâm tình đó cứ nối tiếp từ bài thơ này qua bài thơ khác như con sóng vỗ mãi mà chẳng bao giờ đến tới bờ riêng tây.

Nhờ đi dự Ngày hội thơ Nguyên tiêu năm 2024 mà tôi tình cờ “nhặt” được tập thơ của 2 vị nữ. Đọc thấy hay nên viết vội vài dòng đúng dịp Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3. Như vậy cũng có ý nghĩa chứ. Mong những câu thơ của chị em ta mãi đẹp và luôn tỏa nắng vàng cho cuộc đời dù hạ tàn hay đông muộn.

Quận 7, ngày Quốc tế Phụ nữ 2024,

P.N.Q

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm