TIN TỨC

Chân dung người nổi tiếng được chấm phá bằng vần điệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-07 16:11:20
mail facebook google pos stwis
140 lượt xem

TUY HÒA /  

Chân dung người nổi tiếng khi khắc họa qua thi ca cũng có những thú vị riêng, vì công chúng vừa thấy tài năng nhân vật vừa thấy tài năng tác giả. Sau trường hợp “Chân dung nhà văn” của nhà thơ Xuân Sách, nhiều tác giả khác cũng tỏ ra hào hứng với thể loại này.

Chân dung người nổi tiếng là một đề tài được nhiều nhà thơ yêu thích. Trong tập di cảo của nhà thơ Lê Đạt (1929-2008) có tên gọi “Album trắng” do NXB Hội Nhà văn ấn hành, cũng có khá nhiều bài thơ chân dung người nổi tiếng. Ví dụ, nhà thơ Lê Đạt viết về nhạc sĩ Tử Phác “Người đáy mộ tâm còn luyến láy/ Đèn vàng nhấp nháy ngã tơ quay” hoặc viết về triết gia Trần Đức Thảo “Lặng lẽ bước đường trường độc thoại/ Nghĩa trang lành cỏ dại bình xanh”.
 

Bìa tập sách của tác giả Nguyên Hùng ký họa chân dung người nổi tiếng bằng thơ.

Dùng vần điệu để chấm phá chân dung người nổi tiếng không hề đơn giản. Bởi lẽ, ngoài thủ pháp đơn giản là sử dụng những tư liệu, những sự kiện liên quan đến nhân vật, thì không dễ tạo điểm nhấn riêng biệt để công chúng mường tượng đầy đủ chân dung người nổi tiếng. Phổ biến nhất trong dòng thơ về chân dung người nổi tiếng là vần điệu các nhà thơ ký họa đồng nghiệp. Lý do, các tác giả vốn có sẵn tên gọi tác phẩm của họ để lắp ghép lại thành những câu mang giá trị thẩm mỹ nhất định.

Ví dụ, trong tập “Ký họa thơ”, nhà thơ Nguyên Hùng viết về bậc tài danh Văn Cao: “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Càng ngẫm càng yêu khuôn mặt em/ Càng thương những người trên cửa biển/ Bạc đầu chờ mùa xuân đầu tiên/ Anh có nghe không những bài ca sống lại/ Về bến xuân hát mãi không thôi/ Tự lúc nào trong âm thầm gác tối/ Buồn tàn thu ám vận suốt một đời?”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh có ý thức làm thơ chân dung từ lâu. Rải rác suốt hành trình sáng tạo của chị, những chân dung của tiền nhân và những chân dung của bè bạn cứ hiện ra nhẹ nhàng và ấm áp. Bây giờ, gom các bài thơ chân dung ấy vào một tập “Thơ chân dung” do NXB Hội Nhà văn ấn hành, bỗng nhận ra thơ chân dung cũng là kết quả “trời đất chẳng phụ người nhân hậu” như một câu thơ của chị.

Thơ chân dung thường được viết bằng thái độ thù tạc hoặc bằng tư duy đáo để. Thái độ thù tạc thì chủ yếu câu chữ vuốt ve để giao lưu và bông đùa. Còn tư duy đáo để, đôi khi lại nhấn nhá vài góc khuất có ý mỉa mai và cười cợt. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh không đi theo lối mòn ấy. Hay nói cách khác, nhà thơ Đặng Nguyệt Anh có một nguồn năng lượng yêu thương và trân trọng để tìm thấy chân dung thơ theo cách riêng mình.

Nguyễn Bính và Trần Dần là hai trường hợp có tài năng khác nhau và cũng nếm trải bi kịch dương gian khác nhau. Không thể viết về Nguyễn Bính và Trần Dần bằng những lời vu vơ giống hệt nhau. Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh phát hiện nét độc đáo của mỗi người, để giúp Nguyễn Bính thổ lộ: “Tương tư chưa hết một đời/ Duyên thơ thắt buộc cho người dở dang” và khẳng định giá trị của Trần Dần: “Ông mang một tia hy vọng/ Tặng cho người tuyệt vọng”.

Mỗi tác giả viết thơ chân dung luôn đặt ra hai mục tiêu, viết vì nhân vật và viết cho chính mình. Cho nên, bên cạnh việc gửi gắm sự tin yêu đến nhân vật, thì thơ chân dung phải có được những câu thơ mang dấu ấn đích thực của tác giả.

Loại thơ chân dung gây xôn xao nhất phải nhắc đến tập “Chân dung nhà văn” xuất bản năm 1992 của nhà thơ Xuân Sách (1932-2008). Lúc sinh thời, chứng kiến tập “Chân dung nhà văn” được đón nhận với những ý kiến trái chiều, nhà thơ Xuân Sách đã hé lộ loại thơ chân dung của ông đã nhen nhóm từ cuối thập niên 1960 ở tòa soạn Văn nghệ Quân đội:

“Cơ quan chúng tôi có tục lệ sau các cuộc họp sơ kết tổng kết thường có mục vui cười. Lần này cũng vậy, Nguyễn Khải khởi xướng: “Tôi đề nghị anh Xuân Sách đọc những bài thơ chân dung mới ra lò. Thời phong kiến vua uy quyền đến thế mà vẫn để một khe hở, tha chết cho quan ngự sử khi có lời trái ý hoàng thượng, anh Sách cũng được hưởng cái quyền miễn trảm ấy nên cứ đọc thoải mái. Xin đọc về tôi trước”.

Thực ra lúc đó tôi chưa chính thức viết chân dung Nguyễn Khải, chỉ có mấy câu đùa tếu, Nguyễn Khải vẫn cứ đọc làm mồi. Rằng trước khi tôi đi ra đảo Cồn Cỏ, vợ tôi lo lắng, tôi có an ủi: “Em đừng tính quẩn lo quanh, họ chiến đấu chứ có phải anh đâu”, rồi khi tôi gặp đồng chí Bí thư huyện ủy Hòa Vang được triệu tập ra Bắc để báo cáo thành tích chiến đấu, vợ tôi lại tưởng tôi đi B nên tôi phải nói: “Anh đi một lát về ngay. Hòa Vang chính ở ngoài này đó em”.

Chờ mọi người cười xong, Nguyễn Khải tiếp: “Tôi chỉ nhớ có vậy, vả lại tôi vốn nhạt nên ông Xuân Sách khó viết hay, bây giờ đề nghị anh đọc bài mới, những bài về anh em ngồi đây càng tốt”.

Tập di cảo của nhà thơ Lê Đạt.

Sau khoảng ba mươi năm miệt mài, nhà thơ Xuân Sách sàng lọc được 100 bài thơ để đưa vào tập “Chân dung nhà văn”, trong đó 99 bài xưng tụng các đồng nghiệp và một bài ông tự vẽ mặt mình: “Cô giáo làng tôi đã chết rồi/ Một đêm ra trận đất bom vùi/ Xót xa Đình Bảng người du kích/ Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi/ Đường tới chiến công gân cốt mỏi/ Lối vào lửa sởn tóc da mồi/ Mặt trời ảm đạm quê hương cũ/ Ở một cung đường rách tả tơi”.

Khi cấp giấy phép xuất bản tập “Chân dung nhà văn”, nhà thơ Lữ Huy Nguyên (1939-1998) với tư cách Giám đốc NXB Văn học đã viết: “Đây là những ký họa có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng.

Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào những nét đặc tả ấy, tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện, vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật. Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó.

Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận xét ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết”.

Dẫu tập “Chân dung nhà văn” rất lừng lẫy, nhưng nhà thơ Xuân Sách không phải người đầu tiên làm thơ chân dung trong văn học chữ quốc ngữ Việt Nam. Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989) và nhà thơ Tú Mỡ (1906-1976) trên mục “Minh niên giáng bút” của Báo Ngày nay xuân 1940, đã cùng nhau viết thơ chân dung các đồng nghiệp. Chẳng hạn, chân dung Nguyễn Tuân được Thế Lữ và Tú Mỡ chấm phá: “Nghe vang theo bóng một thời/ Tên này thực biết vâng lời người trên/ Bây giờ gần gụi ả phiền/ Hỏi han câu chuyện ngọn đèn dầu ta”.

Khi làm thơ chân dung, mỗi nhà thơ có một góc nhìn nhân vật và một thái độ thẩm mỹ khác nhau. Cùng bái vọng tiền bối Nguyễn Bính, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm và nhà thơ Trần Mạnh Hảo đều dùng thể loại lục bát, nhưng lại mang hai phong cách dị biệt.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết: “Hai lần lỡ bước sang ngang/ Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi/ Trăm hoa thân rã cành rời/ Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ/ Kìa ai đường nắng mịt mù/ Giắt đầu nắm lá hương nhu gánh gồng/ Kìa con bướm trắng vẽ vòng/ Và hồn trinh nữ ngồi hong tơ buồn/ Hình như phía cuối hoàng hôn/ Hao hao anh lái vào thôn bán thuyền/ Đường xa thi khách không tiền/ Bước vô quán trọ đến thềm lại thôi/ Sững sờ trước giậu mùng tơi/ Hỏi người, người đã mấy hồi sang ngang”.

Còn nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết: “Trăm hoa dễ được hoa nào/ Về xem bướm hóa thi hào vườn dâu/ Về xem cái kén mọc đầu/ Ruột gan rút hết từng câu nhân tình/ Tài cao đẩy thấp phận mình/ Vỉa nồi niêu vẫn còn kinh hề mồi/ Thơ không thể đổ vào nồi/ Ngắm mình trong nước giếng thơi hết hồn/ Đêm sao sáng cạn hoàng hôn/ Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần/ Một đoàn bươm bướm đưa chân/ Hai hàng lục bát khiêng phần mộ thơ”.

Trở lại với tập “Album trắng” của nhà thơ Lê Đạt. Thơ chân dung cũng được nhà thơ Lê Đạt thể hiện tối giản, độc giả phải đoán “bóng” qua “chữ”. Chẳng hạn, viết về nhà thơ Quang Dũng “Tây tiến Mai Châu còn mộng biếc/ Trọn đời nhất bận việc rong chơi”, viết về nhà thơ Hoàng Cầm “Hồn cò trắng khất tình trăng sông Đuống/ Mộng vàng cầm giải chấp cuống diêu bông”, viết về nhà thơ Hữu Loan “Mấy chữ sim đồi hoa tím mãi/ Tóc dài râu bạc đãi sông mưa” hoặc viết về nhà văn Trương Tửu “Rời bục giảng đường về ở ẩn/ Ông lang Hàng Gà cứu hận Bách Khoa”.

Nguồn: Văn nghệ Công an.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm