TIN TỨC

“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-30 02:51:36
mail facebook google pos stwis
12 lượt xem

TRẦN MỸ DUYÊN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn)  -“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.

 

Tập truyện ngắn Bến nước Kinh Cùng

Sinh ra và lớn lên giữa miền sông nước An Giang, nhà văn Nguyễn Lập Em được biết đến là ngòi bút quen thuộc của văn học Nam Bộ, mang trong mình một tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương. Chính tình cảm ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn và khơi dậy mạch nguồn sáng tạo của nhà văn qua những tập thơ, truyện và tiểu thuyết, để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn xuôi hiện đại An Giang. Những tác phẩm tiêu biểu của tác giả có thể kể đến như: “Ở lại Đồi Tức Dụp”, “Điều em chưa nói”, “Thấp thoáng cánh cò”… và đặc biệt là tập truyện ngắn “Bến nước kinh Cùng” được xuất bản vào mùa đông năm 2002. Ở đó, cô đã đưa nhịp thở hồn quê đến gần hơn với bạn đọc của mình bằng cách tái hiện chân thực một bức tranh sống động về một miền đất nặng phù sa, nơi những phận người mộc mạc hiện lên đầy chan hòa và tình nghĩa.

Ngay từ nhan đề, tác phẩm đã gợi ra không gian nghệ thuật đặc trưng của Nam Bộ: bến nước, dòng kinh, bãi sông, con đò, cánh đồng hay xuồng ghe… Cả tập truyện bao gồm tám truyện ngắn: Bến nước kinh Cùng, Bãi sông xanh, Xóm mồ côi, Lời của dòng sông, Xa lắc Cồn Te, Mùa vông chín, Đi một ngày đàng, Sông Hậu xuôi về. Đó như một dòng chảy cảm xúc, vừa khắc họa cảnh sắc quen thuộc, vừa làm nền cho những câu chuyện xúc động về tình người Nam Bộ.

Mỗi truyện trong sách như một lát cắt của đời sống dưới cái nhìn chan chứa yêu thương về cuộc đời của người viết. Từ những ngôn từ giản dị, thân thương, tác giả khẽ mở ra những cảnh nhà, phận người, để người đọc bắt gặp sự chất phác, hiền hậu của con người ở mảnh đất hiền hòa. Và điều đặc biệt, khi khép lại mỗi câu chuyện, tác giả đều mang đến một cái kết đầy dư âm, vang vọng và đôi khi lắng lại thành một khoảng trầm êm đềm dội ngược vào trong. Có lẽ, đó là khi bạn đọc sẽ thả hồn theo những rung động sâu kín của chính mình…

 

Tác giả Trần Mỹ Duyên

 

Trong tám truyện, mỗi truyện đều gợi cho tôi một cảm xúc thân quen đến lạ, nhưng có lẽ “Xa lắc Cồn Te” đã thật sự chạm đến lòng tôi. Ấn tượng nhất là giọng văn Nam Bộ mộc mạc, gần gũi mà nhà văn Nguyễn Lập Em đã dùng để khắc họa phận đời con người nơi bãi bồi giữa dòng Hậu Giang.

Cồn Te là một bãi bồi do phù sa sông Hậu sinh ra, như chiếc đĩa úp giữa lòng sông, nơi bao phận người mưu sinh bám trụ. Và ở đó, có câu chuyện về thầy Bá Tri, người thầy đã gắn bó với Cồn Te hơn hai mươi năm, từ khi còn là tập viên. Thầy như chứng nhân của mọi đổi thay trên bãi đất nhỏ. Nhưng vì cuộc sống mưu sinh, tiền lương kiếm được từ nghề dạy trên bãi đất nghèo thật sự ít ỏi. Vì thế, đã có một khoảng thời gian thầy rời bục giảng, chọn rời xa Cồn Te làm kế toán, để rồi nhận ra "Đó không còn là mình". Thầy đang đánh mất chính mình giữa những thủ đoạn bon chen. Để từ đó bằng sự kiên trì với nghề giáo, thầy quyết lòng trở lại cồn đất nhỏ giữa cuộc đời nhiều thử thách. Về lại bãi bồi với “tiếng gọi “thầy ơi” xoáy sâu vào trái tim thầy Bá Tri. Ông biết, ông trở về đây là đúng, dù có muộn màng." Thế nhưng, quy luật phù sa bồi lở vốn khắc nghiệt: cồn vẫn lỡ, người vẫn rời. Thầy cũng phải rời đi, như vị thuyền trưởng cuối cùng rời khỏi con tàu bị đắm mang theo tất cả day dứt và thương nhớ.

Và tại sao tôi lại chọn kể về “Xa lắc Cồn Te”? Bởi lẽ, tôi thấy được đâu đó là bóng dáng của mình trong nhân vật thầy Bá Tri. Thầy từng rẽ sang nghề kế toán để tìm ổn định vì cuộc sống mưu sinh, nhưng sớm nhận ra, đó không phải là mình. Chỉ khi trở lại bục giảng, thì hạnh phúc mới một lần nữa mỉm cười. Và tôi cũng từng như thế, từng chông chênh khi chọn học nghề giáo, từng cố gắng ép bản thân chọn con đường có vẻ sẽ “nhàn" hơn. Nhưng rồi, như thầy, tôi nhận ra rằng chỉ khi sống đúng với ước mơ, ta mới có thể thật sự muốn cố gắng và tiếp tục. Từ đó, tôi càng vững lòng hơn với quyết định của chính mình: Chỉ có kiên gan và bền chí theo đuổi ước mơ, ta mới tìm thấy được ánh sáng để tiếp tục bước đi.

Điểm sáng của truyện còn là sự am hiểu tường tận về quy luật của thiên nhiên sông nước và vận dụng điều đó để đưa vào tác phẩm của nữ nhà văn. Phù sa bồi đắp để hình thành những bãi đất trù phú, nhưng cũng có lúc đất lại lở đi, như lời người xưa: “Đất bãi, trăm năm bồi, trăm năm sau sẽ lở.” Từ đó, tác giả không chỉ ghi nhận quy luật của đất trời mà còn đối chiếu với quy luật của đời người. Bồi và lở là tất yếu, nhưng con người sao tránh khỏi sự  luyến lưu và nhớ thương? Một bãi bồi, nhiều năm về trước có lẽ chỉ là miền đất lạ. Thế nhưng, hai mươi năm sau, nơi ấy lại hóa thành chốn để về của một lữ khách từng ngang qua. Và khi rời đi, kỷ niệm vẫn neo lại, vương mãi như sóng nước chẳng nguôi…

Nói như Chế Lan Viên:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn.”

Và rồi, tôi tự hỏi: Điều gì có thể níu giữ một người ở lại?

Không phải chỉ vì miếng cơm manh áo, cũng chẳng phải là vùng đất bồi lở vô thường, mà chính ở tình người Nam Bộ, là những sợi dây vô hình của ký ức và tình cảm. Như thầy Bá Tri gắn bó với Cồn Te hơn hai mươi năm, thứ giữ chân người thầy không chỉ là mái trường nghèo hay những con chữ, mà còn là sự gắn bó chân thành giữa người với người. Là tiếng gọi “thầy ơi” thật hồn nhiên của đám học trò nơi bãi bồi. Đất có thể lở, cồn có thể mất, nhưng tình thương và ký ức đã hóa thành tâm hồn, thành vĩnh cửu trong trái tim mỗi người.

Khép lại truyện ngắn “Xa lắc Cồn Te”, ta như còn nghe những dư âm vang vọng giữa bãi bồi, để rồi chợt nhận ra những phận người giản dị nơi miền sông nước chưa bao giờ rời khỏi tâm tưởng. Và cũng chính từ đó, ta lần giở lại từng trang của "Bến nước kinh Cùng" nơi dòng kinh, bến nước và những kiếp người tình nghĩa hiện lên.

Hãy một lần tìm đến và cảm nhận nhịp sống của phận người mộc mạc nơi đây, để thấy quê hương Nam Bộ không chỉ là miền đất bồi lở, mà còn là bến đợi của ký ức và tình người./.
 

(*) “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em đã đoạt giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2003 và được Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn trao giải A đồng hạng- “Tác phẩm xuất sắc trong 30 năm” (1980 – 2010). Riêng truyện ngắn “Bến nước kinh Cùng” đoạt Giải Ba - Cuộc thi Truyện ngắn Đồng bằng sông Cửu Long năm 2002 và soạn giả Đặng Minh chuyển thể kịch bản Cải lương đoạt giải Nhì - Cuộc thi Kịch bản sân khấu toàn quốc, đạo diễn Trần Mỹ Hạnh dàn dựng tham gia Liên hoan “Hương Sắc Cửu Long” các tỉnh khu vực ĐBSCL đoạt Huy chương Bạc toàn đoàn và nhiều Huy chương Vàng, Bạc dành cho diễn viên năm 2020.
 

T.M.D

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm