- Lý luận - Phê bình
- Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm tình thân của Tuấn Trần – người trẻ viết về nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
TUẤN TRẦN
(Suy ngẫm về hành trình tồn tại của thơ trong đồ hình thẩm mỹ cũng như của chữ “thương” trong một đời người tình nghĩa)
Cuộc đời ngắn chẳng đầy tấc, cuộc thi ca cũng chỉ là phô bày chớp mắt cho thế là cùng, rồi đi vào ngăn kéo và bị đóng đập dứt khoát. Thế nhưng, nếu đã có “căn nguyên” thì hào quang sẽ một đôi lần nữa được sục sạo và tỏa sáng từ những xếp nếp, gói ghém. Gã thời gian “mặt sắt đen sì” kia! đôi khi cũng phải “ngây ra vì tình” và đồng ý lưu lại nơi ngõ nẻo vào dĩ vãng hồn thơ của người con gái “Sông Ninh” từng như “huyền thoại”...
Thiết lập hẳn một không gian tinh thần trong thuần sâu lắng, điều mà thi ca bây dừ khó tìm được. Bởi Đặng Nguyệt Anh đã sống như “Hoa cỏ thương nhau/ Đến nghẹn ngào”. Đã “hồn nhiên” đi vào cuộc chiến và tình yêu… Đến bây giờ trên gương mặt, trong đáy mắt của “Ngoại” vẫn giữ được vẻ đẹp trong trẻo, thuần hậu mà đã một thời làm cho bao người trai “… cả đời thương nhớ gỡ không ra”
Đêm trăng chiến hào đó mở ra không hoang đường, siêu nhiên, mộng mỵ, ma ảo như những đêm trăng đã từng thấy trong cốt lõi văn chương nước nhà. Giữa cái cam go quyết liệt trong bối cảnh tử chiến, bỗng có một góc nào đó ta lại thấy “say miền bão lửa” dẫu “Phận gái như cánh chuồn kim”…
Vẻ đẹp của sự thiêng liêng trong những thanh âm được “chân thực hóa”, đó là tinh thần thẩm mỹ tự thân nơi những dòng nhật kí tình thương thường hằng - được bắt dẫn bởi lòng ái quốc: “Biết rằng bom đạn gian nan/ Xin cha mẹ, con vào Nam tìm chồng/ Mưa chiều giăng trắng dòng sông/ Trũng sâu mắt mẹ lưng tròng lệ xa”. Nó khác xa lạ kì với cái “thô thiển hóa” trong những tiếng thơ thiếu sinh khí sự thật nội tại, đang diễn ra hôm nay.
Dẫu trong hiện thực khắc nghiệt, hành trình của thiếu phụ là xốc liệt, kiên gan, thì nơi trái tim - thể hiện qua hồn thơ vẫn “tiêu tao yểu điệu” như “Trăng liềm lơ lửng giữa trời/ Cho em đưa võng một thời Trường Sơn”. Đó là thứ thơ được chưng cất từ một trái tim yêu thương chín độ trọn vẹn và luôn bình tĩnh trước tình yêu cùng lý tưởng để “gánh ghì” số phận chung/ riêng - sống đâu chỉ cho khát vọng trong mình, còn vì một nỗi nặng lòng “sẻ chia” với thế gian.
Vì lẽ đó, thơ Đặng Nguyệt Anh, chủ đạo vẫn là những vần mang sắc thái – KHÔNG ĐA ĐOAN và cũng nhiều cái “không” khác: Không đay đả, không khắc nghiệt, không cười cợt, không nhiều triết lý nhưng cứ thế thầm thì sâu sắc vào tai tôi: Rằng cuộc đời thế đó “cháu” tôi ơi, nhiều điều đáng chán nhưng ngay cả lúc đau, trong máu me và bạo lực cũng phải để lại cho đời những điều thiện đẹp - Trường Sơn rùng rùng đất đá/ Vẫn mơ phương trời lạ/ Khát cháy lòng một ban mai”. Bởi “Mai rồi/ Nằm dưới cỏ khâu/ Chỉ mang theo được/ Nỗi đau xuống mồ”.
Trong cơn lửa chiến tranh hay cơn bão đời người đa sự truân chuyên, tình yêu đã lặng lẽ làm dịu đi/ cho bớt đau thương. Có thể ta chẳng còn nhận ra mất mát vì nó luôn mang sắc màu của mùa thu thanh, yên ả, đã rất nhiều lần dáng nét “thu sang” gợi tình trong thơ Chị - “Gửi đi một chút heo may/ Để bên ấy biết bên này thu sang/ Cho/ em đỏ chút lá bàng/ Cho em xanh chút mơ màng trời xanh/ Cho em chia nỗi buồn anh/ Để con nhện cứ buông mành giăng tơ.../ Bờ rào con sáo ngẩn ngơ/ Có bông cúc dại đang chờ thu sang!”
Khi người cầm bút, dùng căn nguyên của sự thật - những trải nghiệm sống từng hết mình, mạnh mẽ để viết, chắc hẳn sẽ không mất quá nhiều năng lượng – những cơn oằn oại sáng tạo thai sinh. Mà đứa con tinh thần lại dễ dàng đi vào đời sống và kéo dài khả thi hơn lời hẹn về cuộc đối thoại với thế hệ tương lai… Thơ của “Ngoại” chí ít đã nhận được sự “khoan hồng” của thời gian. Để hôm nay nó nằm trên bàn tay “cháu” - một người trẻ chưa từng được nghe “tiếng hát át tiếng bom”, chưa từng được sống cho cùng tử tế và có thể chưa từng biết yêu (yêu thương) mà vẫn hiểu - vỡ đôi điều.