TIN TỨC

Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-14 11:24:10
mail facebook google pos stwis
43 lượt xem

Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.

Rốt cuộc việc dọ hỏi rơi vào ngõ cụt, nhưng tôi không bỏ cuộc. Sở dĩ có tình trạng vậy bởi tôi không biết cách mua sách trên mạng, đi lướt vài nhà sách không thấy bày bán là thôi. May quá, gần đây nhà thơ Phan Hoàng đã cho tôi mượn “Lò mổ” bản bìa cứng, tôi đọc và mạo muội có vài dòng cảm nhận dưới đây.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

  1. Trường ca “Lò mổ” là một tác phẩm siêu thường trong đó tính hiện thực, siêu thực và huyền ảo hòa quyện chặt chẽ.

Lò mổ trong mắt đại chúng là nơi giết thịt những con vật to lớn như trâu, bò, heo hoặc dê, đại loại vậy. Tôi đã thấy cách người ta giết trâu, chẳng khác mấy cảnh giết bò trong mô tả của ông Thiều. Đồ tể cột dây vào hai chân trước của con vật giật mạnh từ phía sau khiến nó khuỵu xuống và sau đó hạ sát bằng nhát đập chí mạng vào cái đốm hình sao trắng sáng ở trán. Trong khoảnh khắc đó người chủ thường lánh đi bởi họ không chịu nổi cú sát thương con vật của mình.

Con bò trong “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đổ xuống, như bản mệnh phải thế, nó “không kêu rống, không vật vã, không bắn vọt phân và nước tiểu, không ợ máu mũi. Đôi mắt mở dịu dàng. Buồn bã. Không bao giờ rơi lệ” (Trang 16), và thế là từ cái chết không cưỡng lại ấy không gian thi ca mở ra, bắt đầu từ “chàng” – người tung nhát búa kết liễu con vật, tới “lão chủ nhà trọ” – người làm nghề đập đầu bò đã ba mươi năm, tới “bầy ruồi” và tới vô vàn triết lý nhân sinh, trải suốt 18 chương sách.

Tôi thích cách tác giả “Lò mổ” cho các nhân vật trong trường ca của mình xuất hiện. Hình ảnh của “chàng” đẹp não nùng, triết lý của “chàng” gần gũi và lạ lẫm, “Một ban mai tĩnh lặng gọi chàng. Trong cơn mê chàng không thể nào đi hết dãy nhà cấp bốn. Chàng thèm khát những đồng cỏ. Đêm qua từ lò mổ trở về, chàng đổ xuống giường như người trúng đạn”(Trang 13). “Lão chủ nhà trọ” thì thế nào? Lão ta được khắc họa rõ nét và có vẻ bê bối “Giờ lão bị tật nguyền. Cánh tay phải bị teo và cong” (Trang 19), không được lung linh như “chàng”.

Tôi tự hỏi tại sao không phải tay trái mà lại là phải, hoặc là cả hai? Cánh tay đồ tể mạnh mẽ từng giáng những nhát búa kinh hoàng giờ bị teo và cong, có chăng yếu tố ngẫu nhiên hay nhân quả gì ở đây? Những đứa con thành đạt của “lão chủ nhà trọ” lớn lên bằng tiết bò và gạo hầm, món ăn đại bổ lắm kẻ ao ước, và “giờ chúng từ chối lão” (Trang 19). Vậy là nhân quả nhỡn tiền. Lão là người thầy đầu tiên dạy “chàng” bài học nhập môn nghề đồ tể: “Quan trọng nhất cái chết phải đến từ từ/Đấy là một nghề/Tàn bạo và trung thực/Những con bò ngã xuống như đi ngủ/Thịt bò tươi phủ ngập thế gian” (Trang 21). Giáo huấn lạnh lùng của lão, viết ra được như thế khó biết chừng nào, bất giác khiến tôi nhớ tới nhân vật Triệu Giáp trong tiểu thuyết “Đàn hương hình” của nhà văn Mạc Ngôn bên Tàu với triết lý “nghề nào cũng có trạng nguyên”.

Theo chủ quan của tôi, tinh thần mang theo trong “Lò mổ” đã vượt ngoài dự liệu của tác giả. Sự can thiệp của vô minh đã đưa những ký tự của “Lò mổ” tiến nhập vào bến mới. Nguồn cội của sự thoát xác này tôi đọc thấy từ hơn ba chục năm trước trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, cụ thể hơn là trong bài thơ “Bài hát về cố hương”…

Trong nghề đao phủ thì Triệu Giáp đích thực là “trạng nguyên”, còn “lão chủ nhà trọ” trong “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đích thực là “trạng nguyên” nghề đồ tể. Bản hợp xướng dài dặc máu bò càng lúc càng siêu thường. Ám ảnh của đôi mắt con bò bị giết khiến “chàng” dằn vặt khôn nguôi và tự cật vấn “có phải chúng ta tội lỗi”. Đỉnh điểm cái tôi gọi là siêu thường vẻ như nằm ở “Bầy ruồi” (Trang 24-39), 16 trang thơ giấy khổ lớn với phông chữ nhỏ chỉ có một mỹ từ duy nhất: “Ruồi”. Không còn là bầy ruồi mà là một thế giới ruồi, phình từ trong trang thơ ra ngoài đời. Tôi hình dung trong khoảnh khắc giông gió, thi nhân vò nhàu mái tóc và thống thiết gọi “Ruồi, ruồi!”, và bầy ruồi liền xông đến. Tôi chưa thấy tác phẩm nào chất “cảm giác mạnh” rõ rệt như trong phần “bầy ruồi” của ông Thiều, nó tràn ngập và hết sức chân thực. Bức tranh “Ruồi” trở nên đặc biệt sinh động khi vở kịch một hồi có tên “Phán xử” (Chương 16) kéo màn lên, để ba nhân vật gồm tay “chủ lò mổ”, “bầy ruồi” và “chàng” đối đáp giữa thanh thiên bạch nhật.

“Chủ lò mổ: Ta có linh hồn. Ta tặng lại linh hồn ta cho các ngươi. Nhận lấy đi, nhận đi.

Bầy ruồi: (Cười rú lên) Ngươi thật ngu dốt. Linh hồn ngươi bẩn thỉu hơn mọi sự bẩn thỉu” (Trang 117).

Trong nhận thức thông thường ruồi là giống dơ bẩn, “Thớt có tanh tao ruồi đỗ bấy/ang không mật mỡ kiến bò chi” (“Thế tục”, Nguyễn Bỉnh Khiêm). Đọc “Lò mổ”, bất chợt ta ngộ ra, ruồi đâu dơ bẩn nhất, có thứ dơ bẩn hơn. Tôi thích vở kịch một hồi này, nó sáng tạo và triết lý. Thông qua phần “Phán xử”, tác giả không chỉ thanh tẩy cho “bầy ruồi” mà còn thổi hồn cho nhặng, họ hàng nhà ruồi. “Thưở ấu thơ tôi thường ngắm những con nhặng bay như bất động giữa không gian tinh khiết/Có ai còn nhớ cảnh này không?/Quá ít người giơ tay” (Trang 79). Tôi quên từ lâu hình ảnh con nhặng xanh bay như bất động giữa không trung cho tới khi được “Lò mổ” đánh thức. Một hình ảnh vu vơ, một lời hỏi gió thoảng, đã gợi lên thời ấu thơ tươi đẹp của bao người, trong đó có tôi.

  1. “Lò mổ” là một tác phẩm kỳ vĩ, khởi lên từ đôi mắt của con bò bị giết và khép lại bằng sự xuất hiện của chú bê con.

“Lặng lẽ và cô đơn/Khôi nguyên và huyền bí/Chưa bao giờ một đôi mắt như thế/Nhìn chàng” (Trang 16).

“Búa đã vung lên/Tiếng rống dội vang/Chiếc kèn đồng lớn nhất thế gian/Dội vào toàn bộ đời sống/Con bò từ từ quỵ xuống/Dịu dàng như nằm xuống đồng cỏ/Đôi mắt nó vẫn mở/Ngôi sao hôm lấp lánh/Sau tiếng rống dội vang/Tiếng kèn hiệu/Một chú bê được sinh ra/Con bò gục xuống sàn đá lạnh/Trút hơi thở cuối cùng/Như cơn gió lớn đi qua/Làm tất cả những cái cây trên mặt đất rung chuyển” (Trang 128).

Sự sống xuất hiện kỳ vĩ và chấn động. Tôi chia sẻ sang chấn ấy, bởi còn có gì lớn lao hơn khi sự sống xuất hiện. Trong thế giới động vật, cụ thể ở “Lò mổ” của ông Thiều là con bò bị đem đi giết trong khi mang thai, nó cam chịu số phận và mong sinh linh mong manh kia sẽ được thấy ánh mặt trời. Tình mẫu tử, người hay bò cũng vậy, là thiêng liêng của thiêng liêng, đã sẵn trong huyết quản của mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con người với tư cách là động vật bậc cao. Hình ảnh “Con bò từ từ quỵ xuống/Dịu dàng như nằm xuống đồng cỏ” thật xúc động, đẹp và buồn náo nức!

Ông Thiều viết: “Tinh thần mang theo trong Lò mổ là một câu hỏi “đời sống tôi đang sống có thực sự là một đời sống?” (Tôi viết Lò mổ, Nguyễn Quang Thiều, trang 7). Cuộc đời ai chả giông gió, chỉ có thể thoát ra bằng sức mình. Thi nhân thoát giông gió bằng ký tự thơ. Những ký tự mang theo nỗi niềm thao thiết của nhân gian, cũng là của thi nhân, bởi vậy chúng có linh hồn, đủ sức để vuốt ve, an ủi mọi nỗi niềm. Người phàm nhắm tới ăn uống hưởng lạc, tiền bộn thì đánh chén ngày 5-7 bận, sơn hào hải vị, lầu son gái đẹp, đạm bạc thì 2-3 bữa, liu riu thì 1 bữa, ai cũng tồn tại trong giá trị tính bằng túi tiền của mình. Thi nhân cần nhiều hơn. Theo chủ quan của tôi, tinh thần mang theo trong “Lò mổ” đã vượt ngoài dự liệu của tác giả. Sự can thiệp của vô minh đã đưa những ký tự của “Lò mổ” tiến nhập vào bến mới. Nguồn cội của sự thoát xác này tôi đọc thấy từ hơn ba chục năm trước trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, cụ thể hơn là trong bài thơ “Bài hát về cố hương” (1991):

“Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi

Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm

Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó

Kiếp này tôi là người

Kiếp sau phải là vật

Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ

Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi”.

“Lò mổ” của hiện tại và “Sự mất ngủ của lửa” của thập niên 1990, đều xoay quanh trường con người, khác chăng là về biên độ và chiều kích của trường ấy. Nhiều người có thể cảm thán hoặc tệ hại hơn thì chửi đổng “Mẹ, thơ phú gì rối rắm, chả hiểu gì cả!”, còn tôi thì thấy “Lò mổ” đang nâng tầm nhận thức cho người đọc. Muốn hòa nhập, muốn chơi với thế giới, mình phải có thứ ngang hoặc vượt tầm. Hát về những chiếc tiểu sành là hát về thân phận người, nói về con bò con bê con ruồi con nhặng là hát về bản nguyên con người. Khó lắm thay! Phải có một nỗi niềm đủ lớn, nói như cụ Nguyễn Tiên Điền trong “Truyện Kiều”: “Một mình mình biết một mình mình hay” (câu 2674) và một tình yêu đủ lớn cộng tài năng vượt trội mới có thể cất lên tiếng hát vị tha và bao dung như thế về con người. Để tiệm cận “Lò mổ” đầy đủ thiết nghĩ phải có nghiên cứu sâu của các nhà lý luận chuyên nghiệp, tối thiểu cũng tầm luận văn tiến sĩ. Tôi mù lòa về thơ, nhất thời cưỡi ngựa xem hoa, chỉ có thể nhận thức đến đấy.

Nhà văn Cao Chiến (cầm sách) cùng các đồng nghiệp luận bàn về tập thơ “Lò mổ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

3. Sự sống không đến từ vô minh mà được khởi lên từ bên trong cái chết, từ tro tàn của sự hủy diệt.

Ý nghĩ sự sống không đến từ vô minh mà khởi lên từ bên trong cái chết, từ tro tàn của sự hủy diệt bám riết lấy tôi suốt lúc trong và sau khi đọc trường ca “Lò mổ”. Thiết nghĩ, sự soi chiếu của khoa học và của tôn giáo về bản nguyên con người chẳng mâu thuẫn với nhận thức này. Lời tâm huyết được cho là của Nguyễn Minh Châu “Hãy đi tới tận cùng của cái ta, ta sẽ gặp nhân loại” rốt cuộc đã ứng với “Lò mổ”, và ông Thiều là người được chọn giữa hàng ngàn thi nhân và đã thực hiện xuất sắc bổn phận. Tôi đặt “Lò mổ” của ông Thiều bên vài tác phẩm xuất sắc của những văn/thi nhân xuất chúng của thế giới đương đại thì thấy chả kém cạnh gì. Lý gì ta không tôn lên. Văn đàn Việt sẽ rạng rỡ mày mặt.

“Khi con biết ngước mắt lên cao bởi nỗi sợ hãi thì chính đó là lời nguyện cầu chân thành nhất”

(Trang 64).

“Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên.

Một cái cây tự do làm thành cánh rừng.

Một con cá tự do làm thành biển cả.

Một con chim tự do làm thành bầu trời.

Một con người tự do làm thành vũ trụ”

(Trang 107).

Có phải vậy không? Đương nhiên là vậy rồi, con người là tiểu vũ trụ mà. Chúc mừng và cảm ơn ông Thiều đã cho chúng sinh trong đó có tôi thưởng thức một món lạ, xuất sắc!

TPHCM, 9.2025

Cao Chiến/Vanvn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm