TIN TỨC

Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-14 11:24:10
mail facebook google pos stwis
583 lượt xem

Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.

Rốt cuộc việc dọ hỏi rơi vào ngõ cụt, nhưng tôi không bỏ cuộc. Sở dĩ có tình trạng vậy bởi tôi không biết cách mua sách trên mạng, đi lướt vài nhà sách không thấy bày bán là thôi. May quá, gần đây nhà thơ Phan Hoàng đã cho tôi mượn “Lò mổ” bản bìa cứng, tôi đọc và mạo muội có vài dòng cảm nhận dưới đây.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

  1. Trường ca “Lò mổ” là một tác phẩm siêu thường trong đó tính hiện thực, siêu thực và huyền ảo hòa quyện chặt chẽ.

Lò mổ trong mắt đại chúng là nơi giết thịt những con vật to lớn như trâu, bò, heo hoặc dê, đại loại vậy. Tôi đã thấy cách người ta giết trâu, chẳng khác mấy cảnh giết bò trong mô tả của ông Thiều. Đồ tể cột dây vào hai chân trước của con vật giật mạnh từ phía sau khiến nó khuỵu xuống và sau đó hạ sát bằng nhát đập chí mạng vào cái đốm hình sao trắng sáng ở trán. Trong khoảnh khắc đó người chủ thường lánh đi bởi họ không chịu nổi cú sát thương con vật của mình.

Con bò trong “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đổ xuống, như bản mệnh phải thế, nó “không kêu rống, không vật vã, không bắn vọt phân và nước tiểu, không ợ máu mũi. Đôi mắt mở dịu dàng. Buồn bã. Không bao giờ rơi lệ” (Trang 16), và thế là từ cái chết không cưỡng lại ấy không gian thi ca mở ra, bắt đầu từ “chàng” – người tung nhát búa kết liễu con vật, tới “lão chủ nhà trọ” – người làm nghề đập đầu bò đã ba mươi năm, tới “bầy ruồi” và tới vô vàn triết lý nhân sinh, trải suốt 18 chương sách.

Tôi thích cách tác giả “Lò mổ” cho các nhân vật trong trường ca của mình xuất hiện. Hình ảnh của “chàng” đẹp não nùng, triết lý của “chàng” gần gũi và lạ lẫm, “Một ban mai tĩnh lặng gọi chàng. Trong cơn mê chàng không thể nào đi hết dãy nhà cấp bốn. Chàng thèm khát những đồng cỏ. Đêm qua từ lò mổ trở về, chàng đổ xuống giường như người trúng đạn”(Trang 13). “Lão chủ nhà trọ” thì thế nào? Lão ta được khắc họa rõ nét và có vẻ bê bối “Giờ lão bị tật nguyền. Cánh tay phải bị teo và cong” (Trang 19), không được lung linh như “chàng”.

Tôi tự hỏi tại sao không phải tay trái mà lại là phải, hoặc là cả hai? Cánh tay đồ tể mạnh mẽ từng giáng những nhát búa kinh hoàng giờ bị teo và cong, có chăng yếu tố ngẫu nhiên hay nhân quả gì ở đây? Những đứa con thành đạt của “lão chủ nhà trọ” lớn lên bằng tiết bò và gạo hầm, món ăn đại bổ lắm kẻ ao ước, và “giờ chúng từ chối lão” (Trang 19). Vậy là nhân quả nhỡn tiền. Lão là người thầy đầu tiên dạy “chàng” bài học nhập môn nghề đồ tể: “Quan trọng nhất cái chết phải đến từ từ/Đấy là một nghề/Tàn bạo và trung thực/Những con bò ngã xuống như đi ngủ/Thịt bò tươi phủ ngập thế gian” (Trang 21). Giáo huấn lạnh lùng của lão, viết ra được như thế khó biết chừng nào, bất giác khiến tôi nhớ tới nhân vật Triệu Giáp trong tiểu thuyết “Đàn hương hình” của nhà văn Mạc Ngôn bên Tàu với triết lý “nghề nào cũng có trạng nguyên”.

Theo chủ quan của tôi, tinh thần mang theo trong “Lò mổ” đã vượt ngoài dự liệu của tác giả. Sự can thiệp của vô minh đã đưa những ký tự của “Lò mổ” tiến nhập vào bến mới. Nguồn cội của sự thoát xác này tôi đọc thấy từ hơn ba chục năm trước trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, cụ thể hơn là trong bài thơ “Bài hát về cố hương”…

Trong nghề đao phủ thì Triệu Giáp đích thực là “trạng nguyên”, còn “lão chủ nhà trọ” trong “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đích thực là “trạng nguyên” nghề đồ tể. Bản hợp xướng dài dặc máu bò càng lúc càng siêu thường. Ám ảnh của đôi mắt con bò bị giết khiến “chàng” dằn vặt khôn nguôi và tự cật vấn “có phải chúng ta tội lỗi”. Đỉnh điểm cái tôi gọi là siêu thường vẻ như nằm ở “Bầy ruồi” (Trang 24-39), 16 trang thơ giấy khổ lớn với phông chữ nhỏ chỉ có một mỹ từ duy nhất: “Ruồi”. Không còn là bầy ruồi mà là một thế giới ruồi, phình từ trong trang thơ ra ngoài đời. Tôi hình dung trong khoảnh khắc giông gió, thi nhân vò nhàu mái tóc và thống thiết gọi “Ruồi, ruồi!”, và bầy ruồi liền xông đến. Tôi chưa thấy tác phẩm nào chất “cảm giác mạnh” rõ rệt như trong phần “bầy ruồi” của ông Thiều, nó tràn ngập và hết sức chân thực. Bức tranh “Ruồi” trở nên đặc biệt sinh động khi vở kịch một hồi có tên “Phán xử” (Chương 16) kéo màn lên, để ba nhân vật gồm tay “chủ lò mổ”, “bầy ruồi” và “chàng” đối đáp giữa thanh thiên bạch nhật.

“Chủ lò mổ: Ta có linh hồn. Ta tặng lại linh hồn ta cho các ngươi. Nhận lấy đi, nhận đi.

Bầy ruồi: (Cười rú lên) Ngươi thật ngu dốt. Linh hồn ngươi bẩn thỉu hơn mọi sự bẩn thỉu” (Trang 117).

Trong nhận thức thông thường ruồi là giống dơ bẩn, “Thớt có tanh tao ruồi đỗ bấy/ang không mật mỡ kiến bò chi” (“Thế tục”, Nguyễn Bỉnh Khiêm). Đọc “Lò mổ”, bất chợt ta ngộ ra, ruồi đâu dơ bẩn nhất, có thứ dơ bẩn hơn. Tôi thích vở kịch một hồi này, nó sáng tạo và triết lý. Thông qua phần “Phán xử”, tác giả không chỉ thanh tẩy cho “bầy ruồi” mà còn thổi hồn cho nhặng, họ hàng nhà ruồi. “Thưở ấu thơ tôi thường ngắm những con nhặng bay như bất động giữa không gian tinh khiết/Có ai còn nhớ cảnh này không?/Quá ít người giơ tay” (Trang 79). Tôi quên từ lâu hình ảnh con nhặng xanh bay như bất động giữa không trung cho tới khi được “Lò mổ” đánh thức. Một hình ảnh vu vơ, một lời hỏi gió thoảng, đã gợi lên thời ấu thơ tươi đẹp của bao người, trong đó có tôi.

  1. “Lò mổ” là một tác phẩm kỳ vĩ, khởi lên từ đôi mắt của con bò bị giết và khép lại bằng sự xuất hiện của chú bê con.

“Lặng lẽ và cô đơn/Khôi nguyên và huyền bí/Chưa bao giờ một đôi mắt như thế/Nhìn chàng” (Trang 16).

“Búa đã vung lên/Tiếng rống dội vang/Chiếc kèn đồng lớn nhất thế gian/Dội vào toàn bộ đời sống/Con bò từ từ quỵ xuống/Dịu dàng như nằm xuống đồng cỏ/Đôi mắt nó vẫn mở/Ngôi sao hôm lấp lánh/Sau tiếng rống dội vang/Tiếng kèn hiệu/Một chú bê được sinh ra/Con bò gục xuống sàn đá lạnh/Trút hơi thở cuối cùng/Như cơn gió lớn đi qua/Làm tất cả những cái cây trên mặt đất rung chuyển” (Trang 128).

Sự sống xuất hiện kỳ vĩ và chấn động. Tôi chia sẻ sang chấn ấy, bởi còn có gì lớn lao hơn khi sự sống xuất hiện. Trong thế giới động vật, cụ thể ở “Lò mổ” của ông Thiều là con bò bị đem đi giết trong khi mang thai, nó cam chịu số phận và mong sinh linh mong manh kia sẽ được thấy ánh mặt trời. Tình mẫu tử, người hay bò cũng vậy, là thiêng liêng của thiêng liêng, đã sẵn trong huyết quản của mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con người với tư cách là động vật bậc cao. Hình ảnh “Con bò từ từ quỵ xuống/Dịu dàng như nằm xuống đồng cỏ” thật xúc động, đẹp và buồn náo nức!

Ông Thiều viết: “Tinh thần mang theo trong Lò mổ là một câu hỏi “đời sống tôi đang sống có thực sự là một đời sống?” (Tôi viết Lò mổ, Nguyễn Quang Thiều, trang 7). Cuộc đời ai chả giông gió, chỉ có thể thoát ra bằng sức mình. Thi nhân thoát giông gió bằng ký tự thơ. Những ký tự mang theo nỗi niềm thao thiết của nhân gian, cũng là của thi nhân, bởi vậy chúng có linh hồn, đủ sức để vuốt ve, an ủi mọi nỗi niềm. Người phàm nhắm tới ăn uống hưởng lạc, tiền bộn thì đánh chén ngày 5-7 bận, sơn hào hải vị, lầu son gái đẹp, đạm bạc thì 2-3 bữa, liu riu thì 1 bữa, ai cũng tồn tại trong giá trị tính bằng túi tiền của mình. Thi nhân cần nhiều hơn. Theo chủ quan của tôi, tinh thần mang theo trong “Lò mổ” đã vượt ngoài dự liệu của tác giả. Sự can thiệp của vô minh đã đưa những ký tự của “Lò mổ” tiến nhập vào bến mới. Nguồn cội của sự thoát xác này tôi đọc thấy từ hơn ba chục năm trước trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, cụ thể hơn là trong bài thơ “Bài hát về cố hương” (1991):

“Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi

Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm

Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó

Kiếp này tôi là người

Kiếp sau phải là vật

Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ

Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi”.

“Lò mổ” của hiện tại và “Sự mất ngủ của lửa” của thập niên 1990, đều xoay quanh trường con người, khác chăng là về biên độ và chiều kích của trường ấy. Nhiều người có thể cảm thán hoặc tệ hại hơn thì chửi đổng “Mẹ, thơ phú gì rối rắm, chả hiểu gì cả!”, còn tôi thì thấy “Lò mổ” đang nâng tầm nhận thức cho người đọc. Muốn hòa nhập, muốn chơi với thế giới, mình phải có thứ ngang hoặc vượt tầm. Hát về những chiếc tiểu sành là hát về thân phận người, nói về con bò con bê con ruồi con nhặng là hát về bản nguyên con người. Khó lắm thay! Phải có một nỗi niềm đủ lớn, nói như cụ Nguyễn Tiên Điền trong “Truyện Kiều”: “Một mình mình biết một mình mình hay” (câu 2674) và một tình yêu đủ lớn cộng tài năng vượt trội mới có thể cất lên tiếng hát vị tha và bao dung như thế về con người. Để tiệm cận “Lò mổ” đầy đủ thiết nghĩ phải có nghiên cứu sâu của các nhà lý luận chuyên nghiệp, tối thiểu cũng tầm luận văn tiến sĩ. Tôi mù lòa về thơ, nhất thời cưỡi ngựa xem hoa, chỉ có thể nhận thức đến đấy.

Nhà văn Cao Chiến (cầm sách) cùng các đồng nghiệp luận bàn về tập thơ “Lò mổ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

3. Sự sống không đến từ vô minh mà được khởi lên từ bên trong cái chết, từ tro tàn của sự hủy diệt.

Ý nghĩ sự sống không đến từ vô minh mà khởi lên từ bên trong cái chết, từ tro tàn của sự hủy diệt bám riết lấy tôi suốt lúc trong và sau khi đọc trường ca “Lò mổ”. Thiết nghĩ, sự soi chiếu của khoa học và của tôn giáo về bản nguyên con người chẳng mâu thuẫn với nhận thức này. Lời tâm huyết được cho là của Nguyễn Minh Châu “Hãy đi tới tận cùng của cái ta, ta sẽ gặp nhân loại” rốt cuộc đã ứng với “Lò mổ”, và ông Thiều là người được chọn giữa hàng ngàn thi nhân và đã thực hiện xuất sắc bổn phận. Tôi đặt “Lò mổ” của ông Thiều bên vài tác phẩm xuất sắc của những văn/thi nhân xuất chúng của thế giới đương đại thì thấy chả kém cạnh gì. Lý gì ta không tôn lên. Văn đàn Việt sẽ rạng rỡ mày mặt.

“Khi con biết ngước mắt lên cao bởi nỗi sợ hãi thì chính đó là lời nguyện cầu chân thành nhất”

(Trang 64).

“Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên.

Một cái cây tự do làm thành cánh rừng.

Một con cá tự do làm thành biển cả.

Một con chim tự do làm thành bầu trời.

Một con người tự do làm thành vũ trụ”

(Trang 107).

Có phải vậy không? Đương nhiên là vậy rồi, con người là tiểu vũ trụ mà. Chúc mừng và cảm ơn ông Thiều đã cho chúng sinh trong đó có tôi thưởng thức một món lạ, xuất sắc!

TPHCM, 9.2025

Cao Chiến/Vanvn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm