- Bút ký - Tạp văn
- Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Tác giả Phùng Chí Cường
Đã mang cái nghiệp viết văn thì sự hư cấu bộc lộ thế mạnh và cũng là đặc thù của nghề. Tuy vậy trong cuộc đời cầm bút, nhiều khi do may mắn gặp được những nguyên mẫu có đầy đủ mọi chi tiết, nhà văn chỉ cần chép lại là đã thỏa sức tung hoành ngòi bút của mình. Tôi may mắn được là một trong số những người viết đó. Trong cuộc hội thảo về “Ngày gia đình Viêt Nam 28 tháng 6” năm nay, tôi được tiếp xúc với anh Trần văn Dũng cùng chị Tô Thị Hương, một gia đình văn hóa tiêu biểu của Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Tuy anh chị đã ở vào lớp người cao tuổi, nhưng với giới văn nghệ sĩ chúng tôi thì tuổi tác chỉ là khái niêm về thời gian mà thôi, bởi thế trong giao tiếp tôi vẫn vô tư gọi là anh và chị. Qua trao đổi tôi được biết, anh Dũng nguyên là cán bộ Tuyên giáo của Thị ủy Bảo Lộc, anh được đào tạo tại trường Tuyên huấn TW2 (thành phố Hồ Chí Minh). Dù đã nghỉ hưu nhưng anh vẫn nhiệt tình tham gia công tác địa phương, anh là con độc nhất của Liệt sĩ Trần Cừ, người Quảng Ngãi (ông hy sinh vào tháng 10 năm 1953 tại chiến trường Đông Miên - Hạ Lào). Còn chị Hương (vợ anh Dũng) là chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, đã được nhà nước tặng kỷ niệm chương, và là một thương binh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Chị chính là con gái của cố Thứ trưởng Bộ lâm nghiêp Tô Văn Bình, (ông là chủ đề tài 327 về chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc), đề tài này được thực thi và đạt hiệu quả rất cao cho nghành lâm nghiệp cả nước. Những thông tin ban đầu đã thực sự lôi cuốn tôi vào cuộc. Tôi muốn hỏi thêm nhiều điều nhưng vì thời gian có hạn nên anh Dũng hẹn tôi một ngày nào đó tới nhà sẽ nói chuyện nhiều hơn...
Nhà số 83, đường Phan Đăng Lưu, phường 1, thành phố Bảo Lộc là địa chỉ mà tôi tìm tới. Đó là một căn nhà cấp 4 bình thường ở phố núi này, hai cánh cổng sơn màu xanh hòa bình mở kéo vào thể hiện sự mến khách của gia chủ. Trước nhà là một khoảng sân nhỏ với mấy chậu cây cảnh, cây nào cây nấy đều xanh tốt, gốc rễ xum xuê quyện vào nhau thành một khối vững chắc, như khẳng định một điều của
(*Quảng Ngãi)
tiền nhân: “Gốc có vững thì cây mới bền!”. Có lẽ đó cũng là ý tưởng của những người làm tuyên giaó như anh Dũng vậy. Anh bắt tay tôi rồi mời vào nhà, chị Hương đã pha sẵn bình trà để tiếp khách. Chúng tôi chào hỏi nhau vài câu như lệ thường rồi bắt đầu vào câu chuyện. Chị Hương cho biết. Khi Ba chị ra Bắc tập kết chị mới được hơn một tuổi, sau này nghe Má kê lại rằng. Ngày ấy những gia đình có người thân đi theo cách mạng hoặc có cán bộ tập kết ra Bắc, ở lại miền Nam thì luôn nơm nớp lo sợ bởi kế sách tố cộng, diệt cộng cùng với luật 10/59 mà chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra để đàn áp đồng bào ta. Chúng lê máy chém đi khắp miền Nam nhằm truy diệt cộng sản, với phương châm “Giết nhầm còn hơn bỏ sót!”, đã gây ra bao cảnh đầu rơi máu chảy, tang tóc ngập tràn. (Theo con số ước tính từ thàng 7 năm 1954 đến giữa năm 1959, chỉ trong vòng 5 năm, ở miền Nam đã có 466.000 người bị bắt, gần 400.000 người bị tù đày và 68.000 người bị giết hại bằng các thủ đoạn man rợ…Năm 1960 “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” ra đời. Má chị Hương đã thoát ly gia đình để đi theo quân giải phóng. Bà được học lớp y tá đầu tiên ở tây Đức Phổ rồi được cử về làm việc tại Trạm phẫu Bác Mười. Cái tên trạm phẫu Bác Mười nghe lạ lạ nên tôi muốn hỏi về nguồn gốc của trạm phẫu này, nhưng chị Hương cũng không rõ mà chỉ biết rằng, khi chị được tham gia đi tiếp tế thuốc men, đạn dược cho bộ đội ở trong cứ, thì lúc đó trạm phẫu Bác Mười đã là một bệnh xá rất quan trọng của bộ đội ta. Thời gian này có chị Đặng Thùy Trâm là bác sĩ người Hà Nội được cử về đây làm trạm trưởng. Vào một ngày cuối tháng 6 năm 1970 Mỹ - Ngụy tổ chức tập kích vào bệnh xá này với số lượng quân rất đông. Trong cơn nguy biến, chị Đặng Thùy Trâm vừa chỉ huy nhân viên nhanh chóng sơ tán thương binh vào nơi an toàn, vừa phải chiến đấu để chặn quân địch. Chị đã bắn hết cơ số đạn của trạm và sử dụng đến quả lựu đạn cuối cùng. Rồi chị đã anh dũng hy sinh. Tôi lặng đi hồi lâu khi nghe chị Hương nhắc đến cái chết anh dũng của nữ bác sĩ, Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm…Thời gian đó Má chị Hương (bà Võ Thị Minh Lan) trong khi đi làm nhiệm vụ cũng bị địch bắn bị thương (hạng thương binh ¾). Khi tiếp chuyện với tôi chị Hương còn mang ra những tấm hình chụp được từ hơn nửa thế kỷ trước, với bao kỷ niệm về quê hương và gia đình. Nơi ấy, tuổi thơ của chị ngập chìm trong khói lửa đạn bom, chứng kiến bao cảnh điêu tàn, những trận càn, những cuộc thảm sát dã man của kẻ thu như ở Bình Hòa, Nhơn Phước, Mỹ Lai cùng nhiều nơi khác do bọn lính Mỹ, lình Park Chung Hee và cả những người lính da vàng mang hỗn danh “Ngụy Sài Gòn” gây ra. Bọn chúng đã càn quét, đốt phá, hủy diệt…, có những xã, những làng chỉ còn rất ít người sống sót. Ở ngay thôn Phước Thới Thượng xã Phổ Nhơn - Đức Phổ của chị ngày ấy cũng phải chịu cảnh tang thương. Bà ngoại chị (cụ Phạm Thị Soa) đã bị đạn rốc-két từ máy bay trực thăng Mỹ bắn chết ngay trước cửa nhà. Chị Hương cầm tấm hình chụp chung với bà ngoại từ năm 1965, đưa cho tôi xem trong cảm xúc ngẹn ngào: “Bà ngoại là người đã nuôi nấng tôi mười mấy năm trời, từ khi Ba tôi ra Bắc tập kết, cả trong những năm Má tôi thoát ly theo quân giải phóng, bà cụ bị giặc Mỹ sát hại sau đó tôi cũng bị địch bắt giam anh ạ!”.
- Vậy chị bị bắt vào năm nào, mà tại sao lại bị bọn chúng bắt vậy?
- Chắc anh cũng biết. Sau tết Mậu Thân (1968) việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược cho bộ đội ta ở trong cứ là rất khó khăn. Hôm ấy một ngày đầu tháng 7 năm 1968 tôi cùng với người bạn gái, nhận nhiệm vụ chuyển một số thuốc men và đạn dược vào cứ cho bộ đội. Những lần đi trước thì đều trót lọt, nhưng lần này không hiểu sao lại bị lộ, bị tụi lính phục kích ngay ở cửa rừng. Thấy hai đứa tôi, chúng hô: ”Tụi bây đứng lại!”, nhưng chúng tôi không chịu mà cùng nhau tháo chạy, bọn chúng nổ súng theo, bạn tôi bị trúng một loạt đạn ngã quỵ xuống. Tôi quay lại định dìu bạn chạy nhưng không kịp, bọn lính đã ập tới bắt được tôi, còn bạn tôi vì bị thương quá nặng nên đã hy sinh. Sau đó bọn chúng đưa tôi về Ấp để thị uy với bà con mình rằng “Đã bắt và tiêu diệt được Việt cộng”, đồng thời bảo bà con lên rừng mang xác bạn tôi về chôn, còn tôi chúng đưa đi nhốt vào trại giam Đức Phổ. Những ngày tiếp theo chúng liên tục hỏi cung, tra tấn đánh đập tôi đến thừa chết thiếu sống, bắt phải khai ra những cơ sở bí mật của ta và nguồn gốc của số thuốc men đạn dược mà chúng đã thu được. Nhưng tôi vẫn cắn răng chịu đựng không hề khai báo. Cứ mỗi lần hỏi cung như vậy thì lại phải có người khiêng về phòng giam chứ tôi đâu có đi nổi nữa!
Cuối năm 1968, tên Trung úy Định đồn trưởng đồn Chợ Cau tới trại giam Đức Phổ để lấy tù nhân đưa đi lao công, hắn nhìn thấy chị Hương nhỏ tuổi dễ thương, nên đã nói với tên trưởng trại cho hắn mang chị Hương về làm con nuôi, với mưu đồ “Một mũi tên trúng hai đích”. Một là, hắn lấy vợ đã mười mấy năm mà vẫn chưa có con, nên muốn nuôi con nuôi cho đứng đầu đứng số theo thuyết duy tâm. Hai là, hắn dùng chị Hương như một con chim mồi để dụ Má chị ra khỏi căn cứ tìm về gặp con, thế là mắc phải âm mưu của hắn (nhưng điều đó đã không xảy ra). Một năm sau khi biết tin này, chị Huỳnh Thị Nhạn là người chị em con già con dì với chị Hương, lúc đó chị Nhạn đang hoạt động cách mạng ở nội đô Sài Gòn, đã bí mật về quê cùng với cơ sở của ta ở xã Phổ Nhơn - Đức Phổ. Tìm được giấy khai sinh của người bạn đã hy sinh tên là Chanh để làm thẻ căn cước cho chị Hương, rồi đưa chị Hương trốn vào Sài Gòn bằng cái tên mới là Võ Thị Chanh, năm đó chị Hương mới vừa 16 tuổi.
- Vậy từ khi trốn vào Sài Gòn thì cuộc sống của chị ra sao? Tôi hỏi, chị Hương không hề lấn cấn mà nhìn sang bên anh Dũng (chồng chị) cười nói:
- Ngày ấy cũng nhờ chạy trốn vào Sài Gòn mà tôi mới gặp đước cái ông có “lệnh truy nã” này đó anh! Tôi định hỏi tiếp nhưng anh Dũng đã cướp lời:
- Thì lúc bấy giờ bà cũng bị chúng “truy nã” quá trời. Cuối cùng không có thằng cha mật vụ nào bắt được bà, mà chỉ có thằng tôi “túm cổ” được bà thôi. Đúng không? Tất cả chúng tôi đều cười rất vui.
… Trong cảm xúc vui buồn lẫn lộn đó đã gợi lại cho anh Dũng và chị Hương nhớ về những tháng ngày sống chui lủi ở Sài Gòn, Theo như lời anh Dũng kể thi sau tết Mậu Thân (1968), một số cơ sở bí mật của ta ở Bảo Lộc - Lâm Đồng bị bại lộ, anh phải chạy trốn xuống Sài Gòn. Đây là lần thứ hai anh và Má anh phải ra đi. Lần thứ nhất vào cuối năm 1958, dưới sự đàn áp tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các gia đình có người đi theo cách mạng. Má anh đã phải cùng với anh là đứa con trai duy nhất từ Đúc Phổ - Quảng Ngãi chạy vào Lâm Đồng hòng thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Và lần này Má anh lại phải theo anh trốn lệnh truy nã của địch để chạy xuống Sài Gòn, sống những năm tháng cực kỳ khó khăn. Ngày ấy, một túp lều dựng tam bên bức tường của trường đua Phú Thọ làm nơi trú ngụ, má con anh nhanh chóng nhập vai “những kẻ vô gia cư”. Ban ngày thì đi làm thuê làm mướn kiếm kế sinh nhai, vừa là để lẩn tránh sự nhòm ngó cuả tụi Việt gian phản động. Hôm nào cũng vậy, cứ đến khuya anh Dũng mới dám mò về chỗ ở. Nếu bất chợt bị bọn Cảnh Sát lùng sục kiểm tra, anh phải leo qua tường vào bên trong trường đua Phú Thọ đẻ ẩn náu. Cứ như thế dần dần má con anh Dũng đã trở thành “Những kẻ cư trú lỳ” dưới con mắt của bọn Cảnh Sát Đô Thành. Cuộc sống của anh ngày đó gian khổ và nguy hiểm hơn chi Hương, bởi chị Hương lúc này đã có vỏ bọc bằng cái tên mới là Võ Thị Chanh rồi. Dù vậy chị Hương vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chị cho biết:
- Từ năm 1969 đến 1973 tôi vừa phải trị bệnh sốt rét rừng, vừa học may khâu và phải đi làm thuê cho nhiều ông chủ. Ở đâu, lúc nào tôi cũng mang theo sẵn mấy bộ đồ trong giỏ xách, đề phòng khi bị địch phát hiện là chuồn cho lẹ. Ngày đi làm, tối về tôi phụ bán cà phê với chị Nhạn. Thời gian đó, anh Dũng là khách thi thoảng đến uông cà phê vội vàng rồi đi ngay. Bằng con mắt tinh đời và kinh nghiệm hoạt động nội đô của chị Nhạn nên chị đã phát hiện ra những bí mật của anh Dũng, đến một ngày kia, nhân lúc vắng khách chị Nhạn khéo léo bố trí cho tôi và anh Dũng gặp nhau. Qua một thời gian tìm hiểu tôi được biết, anh Dũng là người cùng quê Quảng Ngãi, cùng chung một chí hướng lại có cùng cảnh ngộ, nên tình yêu đã sớm nảy sinh. Chúng tôi dự định đến ngày đất nước thống nhất mới tổ chức đám cưới, vì lúc này Má tôi còn ở trên núi, Ba tôi ở ngoài Bắc nên tôi không thể. Nhưng rồi thời gian cứ trôi đi, chiến tranh thì ngày càng ác liệt, kẻ thù lại truy nã gắt gao hơn, nên cuối năm 1973 tôi và anh Dũng đã quyết định đi đến hôn nhân, hợp thức hóa thành một gia đình để che mắt địch. Từ đó tôi và anh ấy được chị Nhạn tin tưởng giao cho một số nhiệm vụ quan trọng…Cho đến sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi lần đầu tiên được xuất hiện công khai trên đường phố, để làm nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội ta từ hướng Đông tiến vào giải phống Sài Gòn. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, tôi mới được mang lại cái tên cũ của mình là Tô Thi Hương anh ạ!
Đến lúc này chiếc đồng hồ treo tường ngân lên 11 tiếng, báo hiệu đã trưa rồi. Tuy vậy tôi vẫn nán lại để hỏi thêm chị Hương về cái ngày đại gia đình anh chi được đoàn tụ như thế nào. Chị Hương sốt sắng trả lời:
- Tất nhiên là quá vui rồi anh! Nhưng chỉ tiếc là mãi đến cuối năm 1976, qua làn sóng phát thanh của đài tiếng nói nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ba tôi và tôi mới nghe được tin nhắn tìm người thân, nhờ vậy mà Ba tôi đã tìm được tôi ở Bảo Lộc - Lâm Đồng, tuy nhiên ông chỉ ở lại với chúng tôi có hai ngày thôi, Ba tôi bảo: “Đất nước mình vừa mới được thống nhất. Sau chiến tranh còn bao nhiêu công việc mà những cán bộ lãnh đạo như ba phải giải quyết. Hơn 20 năm xa cách nay mới tìm gặp lại được gia đình vợ con. Ba rất vui mừng và rất tự hào về má con và các con. Dù đã phải trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ trước mũi lê họng súng của kẻ thù, nhưng vẫn son sắt một lòng thủy chung với cách mạng, để hôm nay gia đình mình có được ngày đoàn tụ vui vẻ như thế này. Ba mong rằng mọi người trong gia đình hãy phát huy truyền thống cách mạng của quê hương đất Quảng và nhất là trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay nghe các con!”. Ba tôi chỉ dặn dò ngắn gọn vậy rồi ra xe đi liền. Phong cách và những lời chỉ bảo của ông ngày ấy, vẫn còn in sâu trong tâm khảm chúng tôi cho tới tận bây giờ !...
P.C.C