TIN TỨC

Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-14 10:00:42
mail facebook google pos stwis
476 lượt xem

TUẤN TRẦN

Nhà thơ Nguyễn Duy của chúng ta đang đứng ở thời điểm “ngày đông tháng giá” của đời người, thế mà hồn thơ vẫn không ngừng bay lên như cánh chim không mỏi. Nơi giường bệnh, tỉnh lại sau hôn mê Anh lại “chấp bút” gửi thơ vào đời. Một lần nữa, thi nhân đã chứng minh cho người thấy được: Nghệ thuật và thi ca đã chiến thắng trước sức mài nghiệt ngã của thời gian - Dẫu thân trần đã có phần thấm mệt, nhưng nhuệ khí hồn thơ luôn cùng tráng kiện.  

Ngày còn nhỏ, tôi thường leo vươn lên ngọn đồi gần nhà, đứng nơi cao xanh ngóng trời lộng gió. Tôi nghĩ rằng ngọn đồi kia đã là lớn lao nhất, cao vọng nhất và cứ ngỡ đó là tất cả những gì trọn vẹn đẹp đẽ trong khao khát chinh phục của chính mình. Từ trên non, tôi thưởng ngoạn hừng đông diệu vợi, chiêm ngắm dòng nước mắt đêm nuốt gọn mặt trời. Nhưng lớn lên, khi nhận ra rằng đó chỉ là một gò trọc trồi nhú bởi cơn chấn động địa chất bất thường nào đó, tôi bắt đầu vỡ dần trong mộng tưởng…

Nhà thơ Nguyễn Duy đón bạn thăm nhà.


Mang trong mình tâm thức của gió, tôi miệt mài đi tìm những “đỉnh cao” - “vì sao sáng tỏa”. Và tôi đã thấy:

“Có gì cháy giữa hai hàng điên điển
lập lòe hoa hay đốm nắng cuối ngày
….
Có gì cháy dưới lòng kênh đỏ rực
mái chèo bung từng vệt hoàng hôn

Có gì cháy trong âm thanh êm ả
câu ca buồn người thiếu phụ ru con
….
Tôi vốn sợ những gì nguội lạnh
nào biết em có nghĩ giống tôi không”.


Và tôi đã thấy những ngọn núi thiêng không tên - ngoài tầm mắt - chỉ tấm lòng mới thấu nhận cho cùng. Từ những con đường mòn đất nâu, từ những dòng sông dung bồi lặng lẽ, từ những ngôi làng ủ vùi trong sương khói… Rằng “đỉnh cao, những vì sao văn học” - không ở đâu xa, mà nằm trong chính sự rung động, trong từng cảm nhận tinh tế về đời - người - thời gian:

“Con dấu chìm chạm trổ tận trong xương
thời thơ ấu không thể nào đánh đổi
trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội
có một miền quê trong đi đứng nói cười.” .


Tại sao mặc cảm? “Văn học Việt Nam hiện đại thiếu vắng chiều kích/ cao”? Trong khi, đã có những “Hi Mã Lạp Sơn” đủ cho văn chương nước nhà “kiêu ngạo” khi giao hòa với nền văn học nhân loại. Đỉnh cao ấy, từ hạt gạo trong sáng trắng ngần, đã đi qua biết mấy vòng đời bão táp, chịu bao cay đắng và nếm bao mặn mòi mạch đất, của mồ hôi cùng đổi giá máu hi sinh:

"Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời."


Tiếng thơ Nguyễn Duy là kho tàng khôn cạn cho tất cả những rung động tinh thần, những lớp nghĩa chồng chất, những cơn sóng âm thầm thở dập từ lòng đất mẹ. Thơ, chữ nghĩa, văn hóa anh hồn thi ca nơi Anh như ngọn núi cao đủ phủ bóng - “Tiềm lực” không chỉ nằm trong vần điệu, trong hình ảnh, mà còn nằm trong khả năng chuyển tải cái đẹp, cái chân thành thiện mỹ, cái giản dị mà kì vĩ của đời sống qua từng chữ, từng nhịp thở của ngôn từ. Đỉnh cao văn học là nơi chuyển trải những chấn thương đời sống, những róng riết cùng kiệt sinh tồn thành những “mật ngôn” thiêng liêng, như tiếng "Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn."

Dù bể dâu biến đổi, xã hội thay màu và những khuôn phép ít nhiều rò rỉ thì hồn thơ Nguyễn Duy vẫn là một phần sống còn trong nhịp thở đương đại để “âm thầm vay – trả”. Như một căn nhà thu vén, đóng gói được sự mênh mông của thời/ không, thơ ôm trọn tạo hóa bằng vòng ôm khoáng đại, khái quát một cách cô cặn nhất. Để rồi từ từng hạt gạo, từng giọt nước mắt, từng bàn tay cặm cụi, con người nhìn thấy chính mình vĩ đại trong cái nhỏ nhoi:

“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
trong hơi ấm nhiều chăn đệm
Của cọng rơm xơ xác gầy gò”


Thơ đậm đà thẩm thấu âm thanh của đời này sóng gió, nơi từng chi tiết nhỏ bé trở thành hình ảnh biểu tượng và thông điệp sâu sắc nguồn cội. Tiềm lực ấy, qua rơm rạ, khói bếp, Đò Lèn,… bằng bờ vai bàn tay người gieo trồng, từ trong ánh trăng hay giọt sữa ta đều thấy được sức mạnh lớn lao giúp con người hiểu điều sống đẹp - “lá rụng về cội”:

“chú tôi nướng nửa đời biệt xứ
nước mã hồi xin tí đất cắm dùi
cáo chết ba năm quay đầu về núi
khệnh khạng hát câu xin lỗi chân trời”.


Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy thật giàu sức mạnh biểu hiện chất phản biện đời sống: tiếng nói can thiệp, đòi được can thiệp vào các trạng huống nhân sinh – chính trường. Thậm chí là tiếng nói hô hào - “cảnh báo” để sống đích thực chân thiện. Nhưng trước hết, sau cùng và tất cả thơ phải là cái ôm ấp trìu mến với cuộc đời, đánh thức niềm hi vọng chứ không phải là nỗi chán chường hay oán ghét hận sầu…

Tiềm lực còn ngủ yên và cần được gọi dậy, như trên cánh đồng chữ nghĩa nằm hoang đợi người tơi xới. Như con giun cần mẫn làm đất, như cánh cam đơm bông, Nguyễn Duy vun trồng sự phì nhiêu cho mảnh đất quê hương, để cái đẹp khai hoa trong bản lĩnh ngôn từ, bản lĩnh sống vị nhân trong tính nhạc tình độc đáo đậm đà yêu thương: "kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng / đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!". Thơ dẫn lối vào đời bằng bài ca hiện thực, những gam màu lạnh lẽo, ưu sầu, tiếc nuối, đắng cay, nhưng luôn tỏa sáng niềm tin về giá trị con người:

“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành”


Nguyễn Duy đã “xé rào”, mở ra khát vọng lớn lao hơn cộng đồng văn chương mà Anh đang sống - thể hiện lòng yêu mến mãnh liệt với muôn dân qua ánh nhòm dọi sâu vào bi kịch, từ tăm tối mà khơi thông dòng sáng nồng nhiệt. Thơ trở thành tượng đài tinh thần, điểm tựa cho dân tộc, cho văn hóa, cho nhân sinh; và trên tất cả, giá trị đích thực mà ta nhận được là một sự thật chất ngất:

“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bôxít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ
dù sau này có như thế... như thế... đi nữa
chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
đừng quên đất nước mình nghèo!”


Trong cuộc hành trình đối diện với đời thường, với điêu trá đảo điên, thơ Nguyễn Duy bừng nở như đường máu đỏ rực trên cánh đồng thẩm mỹ, nhưng với tâm thế ung dung, năng động từng tận tế bào - giác quan. Việc không ngừng “chất vấn” bằng nhịp phách thản nhiên liên hoàn giúp tiếng thơ trở thành nhịp điệu bền bỉ, bay bổng trong cùng nhận thức và tư duy - gói trọn, bao quát, tỉ mỉ và tự nhiên, lại rất tâm sự, trữ tình ngọt ngào cả thấm nhuần chịu đựng, khổ đau.

Trong thời đại trí tuệ nhân tạo, thơ vẫn giữ vai trò là ngọn đuốc sống dẫn lối nhận thức, giữ nhịp cho trung hòa bền vững tương cân. Nó đánh động những câm lặng, nhắc nhở về trách nhiệm, về sự chân thành, và khả năng biến đời sống thành bản trường ca đầy ý nghĩa. Nguyễn Duy vẫn tin tưởng vào tiếng việt, nghệ thuật, và văn học nước nhà. Anh cùng sống, cùng đau, cùng xây đắp, lật dở vỉa tầng đời để “xới đảo” tơi xốp cho sự gieo trồng điều cao thượng. Trên đỉnh dốc chông chênh của thời đại, nơi khoảnh khắc tạo hóa vặn xoáy xoay vần dù dưới chân là vực sâu, Anh vẫn:

“Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát

ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…”

Nguyễn Duy đã làm nên được điều mà bao nhà thơ suốt đời khao khát: biến cái nhỏ nhoi thành điều kì vĩ, biến trải nghiệm lòng riêng thành nỗi niềm bao dung, biến nỗi đau thành điệu nhạc, biến lặng im thành khúc hát rát bỏng. Ở đó, thơ có lúc rền vang như lời sấm, là ngọn đuốc soi rọi hành trình tìm về căn cốt hồn Việt, làm cho văn học nước nhà không chỉ còn là sự tồn tại mà trở thành một đỉnh cao tự thân – rực rỡ, kiêu hãnh, thấm đẫm tinh thần của quá khứ đánh đổi hi sinh và khát vọng sang trang.

Hồn thơ ấy vẫn ngân nga, thổn thức và ngậm ngùi trong từng nhịp sống: nơi tiếng cười giòn tan của trẻ nhỏ, trong luống cày, tấc đất… Và đáy mắt đục mờ vẫn ánh lên nồng ấm của người mẹ quê, trong giọt mồ hôi rơi xuống thành hạt ngọc trên lưng áo người lao động, trong làn gió trưa lặng lẽ nhẹ ùa qua vòm lá, trong mảnh trăng nước hương thôn chan chứa ân tình. Tiềm lực – tiềm lực của đất, của người, của chữ nghĩa vẫn đang thức dậy vươn vai, đang mời gọi thôi giục mọi tâm hồn còn biết tin yêu vào tín điều đẹp đẽ.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm