- Lý luận - Phê bình
- Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
TUẤN TRẦN
Nhà thơ Nguyễn Duy của chúng ta đang đứng ở thời điểm “ngày đông tháng giá” của đời người, thế mà hồn thơ vẫn không ngừng bay lên như cánh chim không mỏi. Nơi giường bệnh, tỉnh lại sau hôn mê Anh lại “chấp bút” gửi thơ vào đời. Một lần nữa, thi nhân đã chứng minh cho người thấy được: Nghệ thuật và thi ca đã chiến thắng trước sức mài nghiệt ngã của thời gian - Dẫu thân trần đã có phần thấm mệt, nhưng nhuệ khí hồn thơ luôn cùng tráng kiện.
Ngày còn nhỏ, tôi thường leo vươn lên ngọn đồi gần nhà, đứng nơi cao xanh ngóng trời lộng gió. Tôi nghĩ rằng ngọn đồi kia đã là lớn lao nhất, cao vọng nhất và cứ ngỡ đó là tất cả những gì trọn vẹn đẹp đẽ trong khao khát chinh phục của chính mình. Từ trên non, tôi thưởng ngoạn hừng đông diệu vợi, chiêm ngắm dòng nước mắt đêm nuốt gọn mặt trời. Nhưng lớn lên, khi nhận ra rằng đó chỉ là một gò trọc trồi nhú bởi cơn chấn động địa chất bất thường nào đó, tôi bắt đầu vỡ dần trong mộng tưởng…

Nhà thơ Nguyễn Duy đón bạn thăm nhà.
Mang trong mình tâm thức của gió, tôi miệt mài đi tìm những “đỉnh cao” - “vì sao sáng tỏa”. Và tôi đã thấy:
“Có gì cháy giữa hai hàng điên điển
lập lòe hoa hay đốm nắng cuối ngày
….
Có gì cháy dưới lòng kênh đỏ rực
mái chèo bung từng vệt hoàng hôn
…
Có gì cháy trong âm thanh êm ả
câu ca buồn người thiếu phụ ru con
….
Tôi vốn sợ những gì nguội lạnh
nào biết em có nghĩ giống tôi không”.
Và tôi đã thấy những ngọn núi thiêng không tên - ngoài tầm mắt - chỉ tấm lòng mới thấu nhận cho cùng. Từ những con đường mòn đất nâu, từ những dòng sông dung bồi lặng lẽ, từ những ngôi làng ủ vùi trong sương khói… Rằng “đỉnh cao, những vì sao văn học” - không ở đâu xa, mà nằm trong chính sự rung động, trong từng cảm nhận tinh tế về đời - người - thời gian:
“Con dấu chìm chạm trổ tận trong xương
thời thơ ấu không thể nào đánh đổi
trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội
có một miền quê trong đi đứng nói cười.” .
Tại sao mặc cảm? “Văn học Việt Nam hiện đại thiếu vắng chiều kích/ cao”? Trong khi, đã có những “Hi Mã Lạp Sơn” đủ cho văn chương nước nhà “kiêu ngạo” khi giao hòa với nền văn học nhân loại. Đỉnh cao ấy, từ hạt gạo trong sáng trắng ngần, đã đi qua biết mấy vòng đời bão táp, chịu bao cay đắng và nếm bao mặn mòi mạch đất, của mồ hôi cùng đổi giá máu hi sinh:
"Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời."
Tiếng thơ Nguyễn Duy là kho tàng khôn cạn cho tất cả những rung động tinh thần, những lớp nghĩa chồng chất, những cơn sóng âm thầm thở dập từ lòng đất mẹ. Thơ, chữ nghĩa, văn hóa anh hồn thi ca nơi Anh như ngọn núi cao đủ phủ bóng - “Tiềm lực” không chỉ nằm trong vần điệu, trong hình ảnh, mà còn nằm trong khả năng chuyển tải cái đẹp, cái chân thành thiện mỹ, cái giản dị mà kì vĩ của đời sống qua từng chữ, từng nhịp thở của ngôn từ. Đỉnh cao văn học là nơi chuyển trải những chấn thương đời sống, những róng riết cùng kiệt sinh tồn thành những “mật ngôn” thiêng liêng, như tiếng "Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn."
Dù bể dâu biến đổi, xã hội thay màu và những khuôn phép ít nhiều rò rỉ thì hồn thơ Nguyễn Duy vẫn là một phần sống còn trong nhịp thở đương đại để “âm thầm vay – trả”. Như một căn nhà thu vén, đóng gói được sự mênh mông của thời/ không, thơ ôm trọn tạo hóa bằng vòng ôm khoáng đại, khái quát một cách cô cặn nhất. Để rồi từ từng hạt gạo, từng giọt nước mắt, từng bàn tay cặm cụi, con người nhìn thấy chính mình vĩ đại trong cái nhỏ nhoi:
“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
trong hơi ấm nhiều chăn đệm
Của cọng rơm xơ xác gầy gò”
Thơ đậm đà thẩm thấu âm thanh của đời này sóng gió, nơi từng chi tiết nhỏ bé trở thành hình ảnh biểu tượng và thông điệp sâu sắc nguồn cội. Tiềm lực ấy, qua rơm rạ, khói bếp, Đò Lèn,… bằng bờ vai bàn tay người gieo trồng, từ trong ánh trăng hay giọt sữa ta đều thấy được sức mạnh lớn lao giúp con người hiểu điều sống đẹp - “lá rụng về cội”:
“chú tôi nướng nửa đời biệt xứ
nước mã hồi xin tí đất cắm dùi
cáo chết ba năm quay đầu về núi
khệnh khạng hát câu xin lỗi chân trời”.
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy thật giàu sức mạnh biểu hiện chất phản biện đời sống: tiếng nói can thiệp, đòi được can thiệp vào các trạng huống nhân sinh – chính trường. Thậm chí là tiếng nói hô hào - “cảnh báo” để sống đích thực chân thiện. Nhưng trước hết, sau cùng và tất cả thơ phải là cái ôm ấp trìu mến với cuộc đời, đánh thức niềm hi vọng chứ không phải là nỗi chán chường hay oán ghét hận sầu…
Tiềm lực còn ngủ yên và cần được gọi dậy, như trên cánh đồng chữ nghĩa nằm hoang đợi người tơi xới. Như con giun cần mẫn làm đất, như cánh cam đơm bông, Nguyễn Duy vun trồng sự phì nhiêu cho mảnh đất quê hương, để cái đẹp khai hoa trong bản lĩnh ngôn từ, bản lĩnh sống vị nhân trong tính nhạc tình độc đáo đậm đà yêu thương: "kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng / đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!". Thơ dẫn lối vào đời bằng bài ca hiện thực, những gam màu lạnh lẽo, ưu sầu, tiếc nuối, đắng cay, nhưng luôn tỏa sáng niềm tin về giá trị con người:
“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành”
Nguyễn Duy đã “xé rào”, mở ra khát vọng lớn lao hơn cộng đồng văn chương mà Anh đang sống - thể hiện lòng yêu mến mãnh liệt với muôn dân qua ánh nhòm dọi sâu vào bi kịch, từ tăm tối mà khơi thông dòng sáng nồng nhiệt. Thơ trở thành tượng đài tinh thần, điểm tựa cho dân tộc, cho văn hóa, cho nhân sinh; và trên tất cả, giá trị đích thực mà ta nhận được là một sự thật chất ngất:
“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bôxít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ
dù sau này có như thế... như thế... đi nữa
chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
đừng quên đất nước mình nghèo!”
Trong cuộc hành trình đối diện với đời thường, với điêu trá đảo điên, thơ Nguyễn Duy bừng nở như đường máu đỏ rực trên cánh đồng thẩm mỹ, nhưng với tâm thế ung dung, năng động từng tận tế bào - giác quan. Việc không ngừng “chất vấn” bằng nhịp phách thản nhiên liên hoàn giúp tiếng thơ trở thành nhịp điệu bền bỉ, bay bổng trong cùng nhận thức và tư duy - gói trọn, bao quát, tỉ mỉ và tự nhiên, lại rất tâm sự, trữ tình ngọt ngào cả thấm nhuần chịu đựng, khổ đau.
Trong thời đại trí tuệ nhân tạo, thơ vẫn giữ vai trò là ngọn đuốc sống dẫn lối nhận thức, giữ nhịp cho trung hòa bền vững tương cân. Nó đánh động những câm lặng, nhắc nhở về trách nhiệm, về sự chân thành, và khả năng biến đời sống thành bản trường ca đầy ý nghĩa. Nguyễn Duy vẫn tin tưởng vào tiếng việt, nghệ thuật, và văn học nước nhà. Anh cùng sống, cùng đau, cùng xây đắp, lật dở vỉa tầng đời để “xới đảo” tơi xốp cho sự gieo trồng điều cao thượng. Trên đỉnh dốc chông chênh của thời đại, nơi khoảnh khắc tạo hóa vặn xoáy xoay vần dù dưới chân là vực sâu, Anh vẫn:
“Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…”
Nguyễn Duy đã làm nên được điều mà bao nhà thơ suốt đời khao khát: biến cái nhỏ nhoi thành điều kì vĩ, biến trải nghiệm lòng riêng thành nỗi niềm bao dung, biến nỗi đau thành điệu nhạc, biến lặng im thành khúc hát rát bỏng. Ở đó, thơ có lúc rền vang như lời sấm, là ngọn đuốc soi rọi hành trình tìm về căn cốt hồn Việt, làm cho văn học nước nhà không chỉ còn là sự tồn tại mà trở thành một đỉnh cao tự thân – rực rỡ, kiêu hãnh, thấm đẫm tinh thần của quá khứ đánh đổi hi sinh và khát vọng sang trang.
Hồn thơ ấy vẫn ngân nga, thổn thức và ngậm ngùi trong từng nhịp sống: nơi tiếng cười giòn tan của trẻ nhỏ, trong luống cày, tấc đất… Và đáy mắt đục mờ vẫn ánh lên nồng ấm của người mẹ quê, trong giọt mồ hôi rơi xuống thành hạt ngọc trên lưng áo người lao động, trong làn gió trưa lặng lẽ nhẹ ùa qua vòm lá, trong mảnh trăng nước hương thôn chan chứa ân tình. Tiềm lực – tiềm lực của đất, của người, của chữ nghĩa vẫn đang thức dậy vươn vai, đang mời gọi thôi giục mọi tâm hồn còn biết tin yêu vào tín điều đẹp đẽ.
