TIN TỨC

Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-14 10:00:42
mail facebook google pos stwis
82 lượt xem

TUẤN TRẦN

Nhà thơ Nguyễn Duy của chúng ta đang đứng ở thời điểm “ngày đông tháng giá” của đời người, thế mà hồn thơ vẫn không ngừng bay lên như cánh chim không mỏi. Nơi giường bệnh, tỉnh lại sau hôn mê Anh lại “chấp bút” gửi thơ vào đời. Một lần nữa, thi nhân đã chứng minh cho người thấy được: Nghệ thuật và thi ca đã chiến thắng trước sức mài nghiệt ngã của thời gian - Dẫu thân trần đã có phần thấm mệt, nhưng nhuệ khí hồn thơ luôn cùng tráng kiện.  

Ngày còn nhỏ, tôi thường leo vươn lên ngọn đồi gần nhà, đứng nơi cao xanh ngóng trời lộng gió. Tôi nghĩ rằng ngọn đồi kia đã là lớn lao nhất, cao vọng nhất và cứ ngỡ đó là tất cả những gì trọn vẹn đẹp đẽ trong khao khát chinh phục của chính mình. Từ trên non, tôi thưởng ngoạn hừng đông diệu vợi, chiêm ngắm dòng nước mắt đêm nuốt gọn mặt trời. Nhưng lớn lên, khi nhận ra rằng đó chỉ là một gò trọc trồi nhú bởi cơn chấn động địa chất bất thường nào đó, tôi bắt đầu vỡ dần trong mộng tưởng…

Nhà thơ Nguyễn Duy đón bạn thăm nhà.


Mang trong mình tâm thức của gió, tôi miệt mài đi tìm những “đỉnh cao” - “vì sao sáng tỏa”. Và tôi đã thấy:

“Có gì cháy giữa hai hàng điên điển
lập lòe hoa hay đốm nắng cuối ngày
….
Có gì cháy dưới lòng kênh đỏ rực
mái chèo bung từng vệt hoàng hôn

Có gì cháy trong âm thanh êm ả
câu ca buồn người thiếu phụ ru con
….
Tôi vốn sợ những gì nguội lạnh
nào biết em có nghĩ giống tôi không”.


Và tôi đã thấy những ngọn núi thiêng không tên - ngoài tầm mắt - chỉ tấm lòng mới thấu nhận cho cùng. Từ những con đường mòn đất nâu, từ những dòng sông dung bồi lặng lẽ, từ những ngôi làng ủ vùi trong sương khói… Rằng “đỉnh cao, những vì sao văn học” - không ở đâu xa, mà nằm trong chính sự rung động, trong từng cảm nhận tinh tế về đời - người - thời gian:

“Con dấu chìm chạm trổ tận trong xương
thời thơ ấu không thể nào đánh đổi
trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội
có một miền quê trong đi đứng nói cười.” .


Tại sao mặc cảm? “Văn học Việt Nam hiện đại thiếu vắng chiều kích/ cao”? Trong khi, đã có những “Hi Mã Lạp Sơn” đủ cho văn chương nước nhà “kiêu ngạo” khi giao hòa với nền văn học nhân loại. Đỉnh cao ấy, từ hạt gạo trong sáng trắng ngần, đã đi qua biết mấy vòng đời bão táp, chịu bao cay đắng và nếm bao mặn mòi mạch đất, của mồ hôi cùng đổi giá máu hi sinh:

"Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời."


Tiếng thơ Nguyễn Duy là kho tàng khôn cạn cho tất cả những rung động tinh thần, những lớp nghĩa chồng chất, những cơn sóng âm thầm thở dập từ lòng đất mẹ. Thơ, chữ nghĩa, văn hóa anh hồn thi ca nơi Anh như ngọn núi cao đủ phủ bóng - “Tiềm lực” không chỉ nằm trong vần điệu, trong hình ảnh, mà còn nằm trong khả năng chuyển tải cái đẹp, cái chân thành thiện mỹ, cái giản dị mà kì vĩ của đời sống qua từng chữ, từng nhịp thở của ngôn từ. Đỉnh cao văn học là nơi chuyển trải những chấn thương đời sống, những róng riết cùng kiệt sinh tồn thành những “mật ngôn” thiêng liêng, như tiếng "Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn."

Dù bể dâu biến đổi, xã hội thay màu và những khuôn phép ít nhiều rò rỉ thì hồn thơ Nguyễn Duy vẫn là một phần sống còn trong nhịp thở đương đại để “âm thầm vay – trả”. Như một căn nhà thu vén, đóng gói được sự mênh mông của thời/ không, thơ ôm trọn tạo hóa bằng vòng ôm khoáng đại, khái quát một cách cô cặn nhất. Để rồi từ từng hạt gạo, từng giọt nước mắt, từng bàn tay cặm cụi, con người nhìn thấy chính mình vĩ đại trong cái nhỏ nhoi:

“Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
trong hơi ấm nhiều chăn đệm
Của cọng rơm xơ xác gầy gò”


Thơ đậm đà thẩm thấu âm thanh của đời này sóng gió, nơi từng chi tiết nhỏ bé trở thành hình ảnh biểu tượng và thông điệp sâu sắc nguồn cội. Tiềm lực ấy, qua rơm rạ, khói bếp, Đò Lèn,… bằng bờ vai bàn tay người gieo trồng, từ trong ánh trăng hay giọt sữa ta đều thấy được sức mạnh lớn lao giúp con người hiểu điều sống đẹp - “lá rụng về cội”:

“chú tôi nướng nửa đời biệt xứ
nước mã hồi xin tí đất cắm dùi
cáo chết ba năm quay đầu về núi
khệnh khạng hát câu xin lỗi chân trời”.


Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy thật giàu sức mạnh biểu hiện chất phản biện đời sống: tiếng nói can thiệp, đòi được can thiệp vào các trạng huống nhân sinh – chính trường. Thậm chí là tiếng nói hô hào - “cảnh báo” để sống đích thực chân thiện. Nhưng trước hết, sau cùng và tất cả thơ phải là cái ôm ấp trìu mến với cuộc đời, đánh thức niềm hi vọng chứ không phải là nỗi chán chường hay oán ghét hận sầu…

Tiềm lực còn ngủ yên và cần được gọi dậy, như trên cánh đồng chữ nghĩa nằm hoang đợi người tơi xới. Như con giun cần mẫn làm đất, như cánh cam đơm bông, Nguyễn Duy vun trồng sự phì nhiêu cho mảnh đất quê hương, để cái đẹp khai hoa trong bản lĩnh ngôn từ, bản lĩnh sống vị nhân trong tính nhạc tình độc đáo đậm đà yêu thương: "kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng / đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!". Thơ dẫn lối vào đời bằng bài ca hiện thực, những gam màu lạnh lẽo, ưu sầu, tiếc nuối, đắng cay, nhưng luôn tỏa sáng niềm tin về giá trị con người:

“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành”


Nguyễn Duy đã “xé rào”, mở ra khát vọng lớn lao hơn cộng đồng văn chương mà Anh đang sống - thể hiện lòng yêu mến mãnh liệt với muôn dân qua ánh nhòm dọi sâu vào bi kịch, từ tăm tối mà khơi thông dòng sáng nồng nhiệt. Thơ trở thành tượng đài tinh thần, điểm tựa cho dân tộc, cho văn hóa, cho nhân sinh; và trên tất cả, giá trị đích thực mà ta nhận được là một sự thật chất ngất:

“Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bôxít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ
dù sau này có như thế... như thế... đi nữa
chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
đừng quên đất nước mình nghèo!”


Trong cuộc hành trình đối diện với đời thường, với điêu trá đảo điên, thơ Nguyễn Duy bừng nở như đường máu đỏ rực trên cánh đồng thẩm mỹ, nhưng với tâm thế ung dung, năng động từng tận tế bào - giác quan. Việc không ngừng “chất vấn” bằng nhịp phách thản nhiên liên hoàn giúp tiếng thơ trở thành nhịp điệu bền bỉ, bay bổng trong cùng nhận thức và tư duy - gói trọn, bao quát, tỉ mỉ và tự nhiên, lại rất tâm sự, trữ tình ngọt ngào cả thấm nhuần chịu đựng, khổ đau.

Trong thời đại trí tuệ nhân tạo, thơ vẫn giữ vai trò là ngọn đuốc sống dẫn lối nhận thức, giữ nhịp cho trung hòa bền vững tương cân. Nó đánh động những câm lặng, nhắc nhở về trách nhiệm, về sự chân thành, và khả năng biến đời sống thành bản trường ca đầy ý nghĩa. Nguyễn Duy vẫn tin tưởng vào tiếng việt, nghệ thuật, và văn học nước nhà. Anh cùng sống, cùng đau, cùng xây đắp, lật dở vỉa tầng đời để “xới đảo” tơi xốp cho sự gieo trồng điều cao thượng. Trên đỉnh dốc chông chênh của thời đại, nơi khoảnh khắc tạo hóa vặn xoáy xoay vần dù dưới chân là vực sâu, Anh vẫn:

“Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát

ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…”

Nguyễn Duy đã làm nên được điều mà bao nhà thơ suốt đời khao khát: biến cái nhỏ nhoi thành điều kì vĩ, biến trải nghiệm lòng riêng thành nỗi niềm bao dung, biến nỗi đau thành điệu nhạc, biến lặng im thành khúc hát rát bỏng. Ở đó, thơ có lúc rền vang như lời sấm, là ngọn đuốc soi rọi hành trình tìm về căn cốt hồn Việt, làm cho văn học nước nhà không chỉ còn là sự tồn tại mà trở thành một đỉnh cao tự thân – rực rỡ, kiêu hãnh, thấm đẫm tinh thần của quá khứ đánh đổi hi sinh và khát vọng sang trang.

Hồn thơ ấy vẫn ngân nga, thổn thức và ngậm ngùi trong từng nhịp sống: nơi tiếng cười giòn tan của trẻ nhỏ, trong luống cày, tấc đất… Và đáy mắt đục mờ vẫn ánh lên nồng ấm của người mẹ quê, trong giọt mồ hôi rơi xuống thành hạt ngọc trên lưng áo người lao động, trong làn gió trưa lặng lẽ nhẹ ùa qua vòm lá, trong mảnh trăng nước hương thôn chan chứa ân tình. Tiềm lực – tiềm lực của đất, của người, của chữ nghĩa vẫn đang thức dậy vươn vai, đang mời gọi thôi giục mọi tâm hồn còn biết tin yêu vào tín điều đẹp đẽ.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm