TIN TỨC

Người làm lệch nhịp thời gian

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-12-07 23:15:58
mail facebook google pos stwis
1666 lượt xem

Mai Văn Phấn

Nếu những tập thơ trước đây của Nguyễn Quang Thiều tựa như dòng sông cuộn xiết vào mùa hạ, mang bao khát vọng, nỗi trăn trở réo gào khi chảy qua những khúc quanh, ghềnh đá..., thì đến "Nhật ký người xem đồng hồ" (NXB Hội Nhà văn, 2023) vừa xuất bản, người đọc được chứng kiến một dòng sông đang tan băng vào cuối xuân, song hành cùng những biến động của cuộc sống đương đại. Dòng sông ấy cuốn đi, đôi lúc phát ra tiếng nổ của những tảng băng bị rạn nứt. Từ vết nứt sắc lạnh và tối giản của ngôn từ trong tập thơ này, ta bỗng nhìn thấy những hình ảnh, tứ thơ lạ lẫm, tuyệt đẹp hiện ra trong những khoảnh khắc ngổn ngang, lo đâu, đầy bất an của đời sống thường nhật.  

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

 

Nước vẫn chảy trong đó

Cây vẫn mọc lên

Lửa không bao giờ tắt

 

Giọng nói người thợ gốm

Chứa đầy khoảng rỗng chiếc bình.

(Bình gốm)

Tập thơ là bước tiến mới trong lộ trình sáng tạo, cách tân thơ của Nguyễn Quang Thiều. Về thơ ông, có lần tôi đã viết: Bóng dáng thời đại và cách tân thi pháp là hai vấn đề lớn và quan trọng xuyên suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều. Thơ ông tỏa sáng trong nhiều đề tài với những cách biểu đạt phong phú và đa dạng. Với tập thơ ngắn này, Nguyễn Quang Thiều thêm một lần nữa khẳng định sự thành công của ông trong cách tân thi pháp.

Ở "Nhật ký người xem đồng hồ", nhà thơ đã ghi dấu những thăng trầm của cảm xúc, thời khắc đột sáng của tư duy trong những chuyển dịch của đời sống đương đại. Trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều, những sự vật và hiện tượng xuất hiện thường không tuân theo quy luật của đời sống, mà phụ thuộc vào những biến cố trong tâm hồn ông, những khát vọng và tư duy thẩm mĩ của riêng ông. Vì thế hình tướng của nó luôn khác thường, mang những vẻ đẹp độc đáo và dị biệt. Bạn đọc sẽ ngỡ ngàng khi bước vào cõi thơ của ông, gặp lại những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống, nhưng giờ đây, chúng đã biến hóa, không nhận ra được nữa. Những sự vật và hiện tượng ấy như vừa được tái sinh, chuyển động theo quy luật riêng, hóa thành tấm gương phản chiếu đời sống và chính nó. Nhà thơ là người đã điều khiển những chuyển động này, làm cho dòng chảy thời gian trong đó như lệch nhịp, lúc tăng tốc, hỗn loạn, lúc trì níu, ngưng đọng.

Đồng hồ trên tay tôi

4:11’

Tôi nhận một lời khen

Và lần đầu tôi biết

Tột cùng của sự xấu hổ

Khi tôi rời khỏi căn phòng

Một kẻ bắn thủng gáy tôi

Bằng hai hốc mắt

 

Đồng hồ trên điện thoại người bên cạnh

4:11’

Không có tôi ở đó

(Lúc 4:11’)

Bằng cách thay đổi nhịp điệu thời gian, nhà thơ đã dẫn bạn đọc tới chính nơi họ đã và đang trải nghiệm, nhận chân các giá trị, nhìn thấy hướng đi khác mà trước đó họ không dễ dàng nhận biết. Đời sống ấy trước đây đã từng hiện ra khắc khoải, đau đớn, quặn thắt trong thơ Nguyễn Quang Thiều. “Chúng ta sống quờ quạng trong những tháng năm bóng tối nham nhở. Nhiều hơn thành phố vùi sâu vào đất” ("Nhân chứng của một cái chết", rút từ tập thơ "Bài ca những con chim đêm", NXB Hội Nhà văn, 1999). Nhưng đến tập thơ này, nó được phơi bày ở khắp mọi nơi bằng diện mạo khác, bạo liệt và tàn ác hơn những gì chúng ta đã biết. Những câu thơ sắc lạnh, chính xác như bản tin thông tấn được tác giả sử dụng khá nhiều trong tập thơ này.

 

Viên cảnh sát da trắng

bắn tám viên đạn vào một thanh niên da đen

(Bản tin ngày)

 

Thời khắc những cô gái trẻ

Vừa ngáp vừa đếm lại tiền

(Lúc 1g sáng)

 

Hay:

 

Nơi ngã tư một chiếc xe tải

Cán nát một cô gái

(Nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường)

Hiện thực đời sống trần trụi, gai góc, phũ phàng trong những câu thơ trên như đẩy người đọc xuống cái hố sâu vốn đã ngổn ngang rác rưởi trong đó. Hiện thực ấy như bề mặt của lớp vỏ xấu xí, thô ráp, thường được Nguyễn Quang Thiều khắc họa, tốc ký vào những thời khắc nhất định trong đời sống chúng ta. Nó như "Đặt giữa chúng ta một chiếc bàn không có mặt bàn" (Một ghi chép tháng sáu). Câu thơ ấy gợi cảm giác trống rỗng, hoang hoải trong những mối quan hệ người, giữa con người với xã hội, môi trường sống. Một câu hỏi đặt ra: đời sống này thật hay ảo? Cái ta đang cầm trên tay là của ta hay chỉ là cú lừa ngoạn mục? v.v... Những câu nghi vấn luôn chợt đến với con người trong mọi hoàn cảnh. Đoạn thơ sau cho bạn đọc hình dung những người vừa thức dậy qua một cơn ác mộng. Họ băn khoăn không biết mình vừa trải qua cung đoạn nào, kiếp sống nào, hạnh phúc hay bất hạnh, vinh quang hay cay đắng...? Cơn mộng ấy hung hiểm ra sao, chỉ riêng họ biết.

Chúng ta có chết không?

Một người thức giấc hỏi.

Nhưng chẳng có câu trả lời nào.

(Những con mồi)

 

Những dòng "nhật ký" như cố ý sao chụp lại hiện thực đời sống một cách trung thực, chính xác đến từng ký tự, không bình luận, và, như cố giấu đi cảm xúc của người viết. Nhưng qua đó, ta vẫn dễ dàng đọc được những ẩn ý và đồng cảm với tác giả trong cách lý giải về bản chất sự vật, hiện tượng đang diễn ra.

Từ một thế giới nanh vuốt được công khai

Đến một thế giới nanh vuốt được che giấu

Và những cái chết không chảy máu

(Hóa mèo)

 

Hiện thực đời sống trong "Nhật ký người xem đồng hồ" thường phồn tạp, có lúc làm ta choáng váng bởi sự xấu xa, ghê rợn của nó. Đó là một hiện thực đời sống "bắt chúng ta viết lại" (Một sáng chủ nhật). Và nhà thơ có lần đã nhìn thấy "Một người lao công/ Đi thu dọn chúng ta" (Người lao công).

Nhưng có một bản hợp đồng

Chúng ta không chịu ký

Là bản hợp đồng

Thiết kế lại chúng ta

(Bản hợp đồng)

 

Cách biểu đạt hiện thực, như tôi vừa nêu, chính là thủ pháp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối mà Nguyễn Quang Thiều thường sử dụng trong thơ và hội họa của ông. Sự tương phản sáng-tối có lúc làm cho vật thể biến dạng và tạo cho chúng những đường nét kỳ diệu. Trên nền (background) thẫm đen, u tối, nhà thơ thường cho ánh sáng đột ngột xuất hiện nhằm đẩy xung đột lên cao, khơi lộ rõ ý tứ cần biểu đạt. Trong những trường hợp này, những tứ thơ lạ, rực rỡ làm ta ngỡ ngàng, tựa như nhìn thấy một con cá đang bơi dưới khe nứt của tảng băng dưới dòng nước giá lạnh, mà trước đấy ngỡ như sự sống ấy đã chết. Đó là vẻ đẹp lung linh của đóa hoa loa kèn chợt xuất hiện qua "một lỗ thủng" trong ngôi nhà tối đen mà nhà thơ đã nhìn thấy.

Tôi lần mò về phía lỗ thủng

Và nhận ra

Một đóa loa kèn.

(Hoa loa kèn)

 

Đó là:

 

Bóng những cái cây bị đốn gục

Từ từ đứng dậy

Đi tìm những cái rễ của mình

(Người lao công)

Mỗi bài thơ trong "Nhật ký người xem đồng hồ" đều mang tinh thần của cái cây "bị đốn" biết tự đứng dậy đi tìm "những cái rễ" của mình. Chúng hé mở cho ta một hy vọng nhỏ nhoi, tựa một mầm cây, một bông hoa bật lên từ vết nứt của trái đất, của dòng chảy thời gian. Để kiến tạo những "vết nứt" này, Nguyễn Quang Thiều thường cho thời gian và vạn vật chuyển động chậm lại, hoặc ngưng đọng trong khoảng khắc.

 

Chiếc đồng hồ hỏng

Dừng ở 10:3'10''

...

Nhưng chiếc kim giờ giữ mãi

Dáng một kẻ bệnh hoạn

Với cái lưỡi hôi thối

Chọc thủng ngàn cái tai

 

Và chiếc kim phút

Một người bị phản bội

Chết đứng đến giờ

(10:3'10'')

 

Tôi nhìn thấy

Con cá bị kẹt trong nước

(Bản tin ngày)

 

Tất cả các phím im lặng

Để soạn thảo ký ức

(Máy chữ cũ)

 

Sự đứng hình đúng thời điểm này cho ta nhìn thấy toàn bộ cảnh quan, khung nền ở phía sau bức hình. Những câu thơ trên như đẩy ta ra xa một khoảng cách nhất định, để tự do cảm nhận, chiêm ngẫm. Lối kiến tạo những thi ảnh này, giống như khi trưng bày hiện vật trong bảo tàng, người ta cố ý chọn góc độ ánh sáng tối ưu để mở ra không gian đa chiều cho khán giả chiêm ngưỡng.

Và đây là tình huống khác. Tác giả làm cho thời gian lệch nhịp, bằng cách cho nó chết lâm sàng, rồi tái hiện trong sự phục sinh.

Vào lúc 9h

Kim giây

Của chiếc đồng hồ đã chết

Bắt đầu ngồi dậy

(Lúc 9h)

 

Những "vết nứt" thời gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều hé lộ cho ta nhìn thấy những góc khuất của đời sống đầy gai góc và tàn ác. Ở những góc nhìn này, tác giả khắc họa sự khốc liệt, tha hóa của đời sống đương thời, đồng thời tạo sự đa nghĩa trong liên tưởng và cảm nhận.

Đấy là giờ trên mặt đất

Những kiếp người trôi dạt

Trên những nẻo đường

Với một tài sản duy nhất mang theo

Đói, khát và hoảng sợ

(Giờ G)

 

Hay, đoạn thơ dưới đây cho thấy sự khốc liệt, tương phản giữa cái đẹp và cái chết trong hai sự hủy diệt:

Một người trồng hoa khác

Như một kẻ điên

Đang nhổ từng khóm hồng

Để tìm một người

Bị giết trong đêm tối

Xác vùi dưới một khóm hồng.

(Những người trồng hoa)

 

Bên cạnh những bài thơ thế sự, Nguyễn Quang Thiều đã dành những dòng cảm xúc chân thành, cảm động cho gia đình, người thân, bè bạn. Ông có nhiều bài thơ hay về Mẹ. Mẹ của ông chính là Làng Chùa quê hương ông, là hiện thân của bao bà mẹ Việt Nam tảo tần, gồng gánh trên vai những vinh quang và mọi đau buồn của lịch sử. Bên cạnh những bài thơ hay viết về mẹ, như "Sông Đáy", "Giấc mộng trưa", "Thư gửi Mẹ",... Nguyễn Quang Thiều có bài thơ "Mưa gần sáng" thật lay động trái tim khiến ta nhớ về Mẹ của mình:

Mẹ lau nước mắt cho con

Trên biên giới mùa thu mây trắng

 

Có một đứa trẻ vừa gọi mẹ vừa lớn

Chợt già đi trong những cúc thẫm chiều..."

(Mưa gần sáng)

 

Hình ảnh đứa trẻ, người mẹ và những bông cúc trong đoạn thơ trên như tan ra, nhòa đi trong cảm xúc, rồi kết tinh thành những giọt nước mắt trong suốt, đẫm tình mẫu tử. Tình cảm ấy dâng đầy trái tim ta, thấm trong cỏ cây, đất đai của Mẹ.

Hay bài thơ dưới đây về bức thư của con gái nhà thơ lúc 3 tuổi. Ngôn ngữ của trẻ thơ thật đáng yêu, ngộ nghĩnh, được thể hiện bằng những dự cảm từ vô thức.

Con không phải nhà tiên tri

Nhưng tất cả những gì cha đang sống bây giờ

Con đã viết ra từ lúc đó

(Thư của con gái lúc 3 tuổi)

 

Mối liên kết huyết hệ đó tựa mạch nguồn liên tục tuôn chảy trong những vần thơ Nguyễn Quang Thiều viết về cháu mình:

Và tôi bế cháu tôi lên dưới vừng dương rực rỡ

Người ban tặng cháu tôi những hạt giống vàng

Để gieo xuống cánh đồng người năm tháng

Những mùa màng nhân ái mãi lên xanh.

(Đưa cháu về quê nội)

 

Ngôn ngữ trong tập thơ "Nhật ký người xem đồng hồ" gần với cách nói đời thường, hướng tới sự tối giản. Tôi thực sự thích thú những hình ảnh lạ lùng và tuyệt đẹp trong tập thơ này, điều ấy chứng tỏ tác giả có trữ lượng sáng tạo dồi dào, rất mạnh mẽ:

Một que diêm

Đẹp như trẻ sơ sinh" (Cúc dại).

 

Ông cũng đặc biệt chủ ý tiết chế, lược bỏ các tính từ, thán từ, sử dụng nhiều động từ nhằm đẩy các chuyển động của thi ảnh đi nhanh hơn.

 

Hai bàn tay đưa lên

Hai cành cây đang mọc

Đôi mắt Quận khép lại

Gương mặt thì mở ra

Hoa đang nở trái mùa

Trên cánh đồng tóc Quận

(Phạm Long Quận lúc 4:33')

 

Những hình ảnh siêu thực, tượng trưng cũng được nhà thơ sử dụng trong tập thơ này. Đoạn thơ dưới đây cho ta liên tưởng tới những bức tranh của Marc Chagall - được mệnh danh là danh họa của những ước mơ:

Một tấm lưới khổng lồ trôi trên những nóc nhà

Và một con Sơn ca mất giọng

rúc sâu trong da thịt chúng ta

(0g17 phút)

 

So sánh thơ Nguyễn Quang Thiều bây giờ với những tập đã in trước đây, ta thấy, ở những bài thơ có liên tưởng mở và vang vọng cảm xúc, thơ của ông ngày càng tinh lọc, nén chặt, và cũng quyến rũ hơn. Đây là đoạn thơ trước đây, trích trong tập "Cây ánh sáng" (NXB Hội Nhà văn, 2009):

Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng

Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường…

(Cây ánh sáng)

 

Và, đây là đoạn trong "Nhật ký người xem đồng hồ":

Dưới tán cây chiều nay hai người im lặng

Những hạt cây xếp bên nhau chuẩn bị khai mùa

Và bầy chim mỏ ngà từ trời xanh đậu xuống

Tán cây vàng

                      Nhặt họ

                                   Bay đi.

(Những hạt cây)

 

Dõi theo thời gian được ghi dưới mỗi bài thơ cho thấy, đa số những bài trong "Nhật ký người xem đồng hồ" được sáng tác trong thời gian gần đây. Ngoài ra, một số bài được viết rải rác từ thời điểm ra đời tập thơ "Ngôi nhà tuổi 17" (1990) đến nay, nhưng chúng có cùng một phong cách nên được xếp chung trong tập thơ này.

Tập thơ mới của Nguyễn Quang Thiều là sự bung phá mạnh mẽ trong trào lưu cách tân thi pháp, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới thơ hiện nay. Một số bài trong tập tựa những mũi khoan dở dang, những tảng đá lớn vừa được khai phá. Tôi coi đó là sự dấn thân mạnh mẽ, dũng cảm của người đi khai sơn phá thạch. Đây là cuốn "Nhật ký" thơ của một Thi sĩ đã đặt nền móng cho khuynh hướng cách tân thơ Việt sau 1986. Với thủ pháp làm lệch nhịp thời gian, cuốn nhật ký bằng thơ này tràn đầy những hình ảnh ba chiều, tiếp nối nhau và khúc xạ, chuyển động theo một dòng chảy cuộn xiết. Dù vạm vỡ hay mỏng mảnh, mọi bài thơ của Nguyễn Quang Thiều đều sáng rỡ và vững chắc một thi pháp riêng biệt, âm vang giọng thơ độc đáo của một tác giả tầm cỡ của thơ Việt Nam đương đại.

 

Hải Phòng, 11/11/2023

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm