TIN TỨC

Người làm lệch nhịp thời gian

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-12-07 23:15:58
mail facebook google pos stwis
1238 lượt xem

Mai Văn Phấn

Nếu những tập thơ trước đây của Nguyễn Quang Thiều tựa như dòng sông cuộn xiết vào mùa hạ, mang bao khát vọng, nỗi trăn trở réo gào khi chảy qua những khúc quanh, ghềnh đá..., thì đến "Nhật ký người xem đồng hồ" (NXB Hội Nhà văn, 2023) vừa xuất bản, người đọc được chứng kiến một dòng sông đang tan băng vào cuối xuân, song hành cùng những biến động của cuộc sống đương đại. Dòng sông ấy cuốn đi, đôi lúc phát ra tiếng nổ của những tảng băng bị rạn nứt. Từ vết nứt sắc lạnh và tối giản của ngôn từ trong tập thơ này, ta bỗng nhìn thấy những hình ảnh, tứ thơ lạ lẫm, tuyệt đẹp hiện ra trong những khoảnh khắc ngổn ngang, lo đâu, đầy bất an của đời sống thường nhật.  

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

 

Nước vẫn chảy trong đó

Cây vẫn mọc lên

Lửa không bao giờ tắt

 

Giọng nói người thợ gốm

Chứa đầy khoảng rỗng chiếc bình.

(Bình gốm)

Tập thơ là bước tiến mới trong lộ trình sáng tạo, cách tân thơ của Nguyễn Quang Thiều. Về thơ ông, có lần tôi đã viết: Bóng dáng thời đại và cách tân thi pháp là hai vấn đề lớn và quan trọng xuyên suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều. Thơ ông tỏa sáng trong nhiều đề tài với những cách biểu đạt phong phú và đa dạng. Với tập thơ ngắn này, Nguyễn Quang Thiều thêm một lần nữa khẳng định sự thành công của ông trong cách tân thi pháp.

Ở "Nhật ký người xem đồng hồ", nhà thơ đã ghi dấu những thăng trầm của cảm xúc, thời khắc đột sáng của tư duy trong những chuyển dịch của đời sống đương đại. Trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều, những sự vật và hiện tượng xuất hiện thường không tuân theo quy luật của đời sống, mà phụ thuộc vào những biến cố trong tâm hồn ông, những khát vọng và tư duy thẩm mĩ của riêng ông. Vì thế hình tướng của nó luôn khác thường, mang những vẻ đẹp độc đáo và dị biệt. Bạn đọc sẽ ngỡ ngàng khi bước vào cõi thơ của ông, gặp lại những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống, nhưng giờ đây, chúng đã biến hóa, không nhận ra được nữa. Những sự vật và hiện tượng ấy như vừa được tái sinh, chuyển động theo quy luật riêng, hóa thành tấm gương phản chiếu đời sống và chính nó. Nhà thơ là người đã điều khiển những chuyển động này, làm cho dòng chảy thời gian trong đó như lệch nhịp, lúc tăng tốc, hỗn loạn, lúc trì níu, ngưng đọng.

Đồng hồ trên tay tôi

4:11’

Tôi nhận một lời khen

Và lần đầu tôi biết

Tột cùng của sự xấu hổ

Khi tôi rời khỏi căn phòng

Một kẻ bắn thủng gáy tôi

Bằng hai hốc mắt

 

Đồng hồ trên điện thoại người bên cạnh

4:11’

Không có tôi ở đó

(Lúc 4:11’)

Bằng cách thay đổi nhịp điệu thời gian, nhà thơ đã dẫn bạn đọc tới chính nơi họ đã và đang trải nghiệm, nhận chân các giá trị, nhìn thấy hướng đi khác mà trước đó họ không dễ dàng nhận biết. Đời sống ấy trước đây đã từng hiện ra khắc khoải, đau đớn, quặn thắt trong thơ Nguyễn Quang Thiều. “Chúng ta sống quờ quạng trong những tháng năm bóng tối nham nhở. Nhiều hơn thành phố vùi sâu vào đất” ("Nhân chứng của một cái chết", rút từ tập thơ "Bài ca những con chim đêm", NXB Hội Nhà văn, 1999). Nhưng đến tập thơ này, nó được phơi bày ở khắp mọi nơi bằng diện mạo khác, bạo liệt và tàn ác hơn những gì chúng ta đã biết. Những câu thơ sắc lạnh, chính xác như bản tin thông tấn được tác giả sử dụng khá nhiều trong tập thơ này.

 

Viên cảnh sát da trắng

bắn tám viên đạn vào một thanh niên da đen

(Bản tin ngày)

 

Thời khắc những cô gái trẻ

Vừa ngáp vừa đếm lại tiền

(Lúc 1g sáng)

 

Hay:

 

Nơi ngã tư một chiếc xe tải

Cán nát một cô gái

(Nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường)

Hiện thực đời sống trần trụi, gai góc, phũ phàng trong những câu thơ trên như đẩy người đọc xuống cái hố sâu vốn đã ngổn ngang rác rưởi trong đó. Hiện thực ấy như bề mặt của lớp vỏ xấu xí, thô ráp, thường được Nguyễn Quang Thiều khắc họa, tốc ký vào những thời khắc nhất định trong đời sống chúng ta. Nó như "Đặt giữa chúng ta một chiếc bàn không có mặt bàn" (Một ghi chép tháng sáu). Câu thơ ấy gợi cảm giác trống rỗng, hoang hoải trong những mối quan hệ người, giữa con người với xã hội, môi trường sống. Một câu hỏi đặt ra: đời sống này thật hay ảo? Cái ta đang cầm trên tay là của ta hay chỉ là cú lừa ngoạn mục? v.v... Những câu nghi vấn luôn chợt đến với con người trong mọi hoàn cảnh. Đoạn thơ sau cho bạn đọc hình dung những người vừa thức dậy qua một cơn ác mộng. Họ băn khoăn không biết mình vừa trải qua cung đoạn nào, kiếp sống nào, hạnh phúc hay bất hạnh, vinh quang hay cay đắng...? Cơn mộng ấy hung hiểm ra sao, chỉ riêng họ biết.

Chúng ta có chết không?

Một người thức giấc hỏi.

Nhưng chẳng có câu trả lời nào.

(Những con mồi)

 

Những dòng "nhật ký" như cố ý sao chụp lại hiện thực đời sống một cách trung thực, chính xác đến từng ký tự, không bình luận, và, như cố giấu đi cảm xúc của người viết. Nhưng qua đó, ta vẫn dễ dàng đọc được những ẩn ý và đồng cảm với tác giả trong cách lý giải về bản chất sự vật, hiện tượng đang diễn ra.

Từ một thế giới nanh vuốt được công khai

Đến một thế giới nanh vuốt được che giấu

Và những cái chết không chảy máu

(Hóa mèo)

 

Hiện thực đời sống trong "Nhật ký người xem đồng hồ" thường phồn tạp, có lúc làm ta choáng váng bởi sự xấu xa, ghê rợn của nó. Đó là một hiện thực đời sống "bắt chúng ta viết lại" (Một sáng chủ nhật). Và nhà thơ có lần đã nhìn thấy "Một người lao công/ Đi thu dọn chúng ta" (Người lao công).

Nhưng có một bản hợp đồng

Chúng ta không chịu ký

Là bản hợp đồng

Thiết kế lại chúng ta

(Bản hợp đồng)

 

Cách biểu đạt hiện thực, như tôi vừa nêu, chính là thủ pháp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối mà Nguyễn Quang Thiều thường sử dụng trong thơ và hội họa của ông. Sự tương phản sáng-tối có lúc làm cho vật thể biến dạng và tạo cho chúng những đường nét kỳ diệu. Trên nền (background) thẫm đen, u tối, nhà thơ thường cho ánh sáng đột ngột xuất hiện nhằm đẩy xung đột lên cao, khơi lộ rõ ý tứ cần biểu đạt. Trong những trường hợp này, những tứ thơ lạ, rực rỡ làm ta ngỡ ngàng, tựa như nhìn thấy một con cá đang bơi dưới khe nứt của tảng băng dưới dòng nước giá lạnh, mà trước đấy ngỡ như sự sống ấy đã chết. Đó là vẻ đẹp lung linh của đóa hoa loa kèn chợt xuất hiện qua "một lỗ thủng" trong ngôi nhà tối đen mà nhà thơ đã nhìn thấy.

Tôi lần mò về phía lỗ thủng

Và nhận ra

Một đóa loa kèn.

(Hoa loa kèn)

 

Đó là:

 

Bóng những cái cây bị đốn gục

Từ từ đứng dậy

Đi tìm những cái rễ của mình

(Người lao công)

Mỗi bài thơ trong "Nhật ký người xem đồng hồ" đều mang tinh thần của cái cây "bị đốn" biết tự đứng dậy đi tìm "những cái rễ" của mình. Chúng hé mở cho ta một hy vọng nhỏ nhoi, tựa một mầm cây, một bông hoa bật lên từ vết nứt của trái đất, của dòng chảy thời gian. Để kiến tạo những "vết nứt" này, Nguyễn Quang Thiều thường cho thời gian và vạn vật chuyển động chậm lại, hoặc ngưng đọng trong khoảng khắc.

 

Chiếc đồng hồ hỏng

Dừng ở 10:3'10''

...

Nhưng chiếc kim giờ giữ mãi

Dáng một kẻ bệnh hoạn

Với cái lưỡi hôi thối

Chọc thủng ngàn cái tai

 

Và chiếc kim phút

Một người bị phản bội

Chết đứng đến giờ

(10:3'10'')

 

Tôi nhìn thấy

Con cá bị kẹt trong nước

(Bản tin ngày)

 

Tất cả các phím im lặng

Để soạn thảo ký ức

(Máy chữ cũ)

 

Sự đứng hình đúng thời điểm này cho ta nhìn thấy toàn bộ cảnh quan, khung nền ở phía sau bức hình. Những câu thơ trên như đẩy ta ra xa một khoảng cách nhất định, để tự do cảm nhận, chiêm ngẫm. Lối kiến tạo những thi ảnh này, giống như khi trưng bày hiện vật trong bảo tàng, người ta cố ý chọn góc độ ánh sáng tối ưu để mở ra không gian đa chiều cho khán giả chiêm ngưỡng.

Và đây là tình huống khác. Tác giả làm cho thời gian lệch nhịp, bằng cách cho nó chết lâm sàng, rồi tái hiện trong sự phục sinh.

Vào lúc 9h

Kim giây

Của chiếc đồng hồ đã chết

Bắt đầu ngồi dậy

(Lúc 9h)

 

Những "vết nứt" thời gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều hé lộ cho ta nhìn thấy những góc khuất của đời sống đầy gai góc và tàn ác. Ở những góc nhìn này, tác giả khắc họa sự khốc liệt, tha hóa của đời sống đương thời, đồng thời tạo sự đa nghĩa trong liên tưởng và cảm nhận.

Đấy là giờ trên mặt đất

Những kiếp người trôi dạt

Trên những nẻo đường

Với một tài sản duy nhất mang theo

Đói, khát và hoảng sợ

(Giờ G)

 

Hay, đoạn thơ dưới đây cho thấy sự khốc liệt, tương phản giữa cái đẹp và cái chết trong hai sự hủy diệt:

Một người trồng hoa khác

Như một kẻ điên

Đang nhổ từng khóm hồng

Để tìm một người

Bị giết trong đêm tối

Xác vùi dưới một khóm hồng.

(Những người trồng hoa)

 

Bên cạnh những bài thơ thế sự, Nguyễn Quang Thiều đã dành những dòng cảm xúc chân thành, cảm động cho gia đình, người thân, bè bạn. Ông có nhiều bài thơ hay về Mẹ. Mẹ của ông chính là Làng Chùa quê hương ông, là hiện thân của bao bà mẹ Việt Nam tảo tần, gồng gánh trên vai những vinh quang và mọi đau buồn của lịch sử. Bên cạnh những bài thơ hay viết về mẹ, như "Sông Đáy", "Giấc mộng trưa", "Thư gửi Mẹ",... Nguyễn Quang Thiều có bài thơ "Mưa gần sáng" thật lay động trái tim khiến ta nhớ về Mẹ của mình:

Mẹ lau nước mắt cho con

Trên biên giới mùa thu mây trắng

 

Có một đứa trẻ vừa gọi mẹ vừa lớn

Chợt già đi trong những cúc thẫm chiều..."

(Mưa gần sáng)

 

Hình ảnh đứa trẻ, người mẹ và những bông cúc trong đoạn thơ trên như tan ra, nhòa đi trong cảm xúc, rồi kết tinh thành những giọt nước mắt trong suốt, đẫm tình mẫu tử. Tình cảm ấy dâng đầy trái tim ta, thấm trong cỏ cây, đất đai của Mẹ.

Hay bài thơ dưới đây về bức thư của con gái nhà thơ lúc 3 tuổi. Ngôn ngữ của trẻ thơ thật đáng yêu, ngộ nghĩnh, được thể hiện bằng những dự cảm từ vô thức.

Con không phải nhà tiên tri

Nhưng tất cả những gì cha đang sống bây giờ

Con đã viết ra từ lúc đó

(Thư của con gái lúc 3 tuổi)

 

Mối liên kết huyết hệ đó tựa mạch nguồn liên tục tuôn chảy trong những vần thơ Nguyễn Quang Thiều viết về cháu mình:

Và tôi bế cháu tôi lên dưới vừng dương rực rỡ

Người ban tặng cháu tôi những hạt giống vàng

Để gieo xuống cánh đồng người năm tháng

Những mùa màng nhân ái mãi lên xanh.

(Đưa cháu về quê nội)

 

Ngôn ngữ trong tập thơ "Nhật ký người xem đồng hồ" gần với cách nói đời thường, hướng tới sự tối giản. Tôi thực sự thích thú những hình ảnh lạ lùng và tuyệt đẹp trong tập thơ này, điều ấy chứng tỏ tác giả có trữ lượng sáng tạo dồi dào, rất mạnh mẽ:

Một que diêm

Đẹp như trẻ sơ sinh" (Cúc dại).

 

Ông cũng đặc biệt chủ ý tiết chế, lược bỏ các tính từ, thán từ, sử dụng nhiều động từ nhằm đẩy các chuyển động của thi ảnh đi nhanh hơn.

 

Hai bàn tay đưa lên

Hai cành cây đang mọc

Đôi mắt Quận khép lại

Gương mặt thì mở ra

Hoa đang nở trái mùa

Trên cánh đồng tóc Quận

(Phạm Long Quận lúc 4:33')

 

Những hình ảnh siêu thực, tượng trưng cũng được nhà thơ sử dụng trong tập thơ này. Đoạn thơ dưới đây cho ta liên tưởng tới những bức tranh của Marc Chagall - được mệnh danh là danh họa của những ước mơ:

Một tấm lưới khổng lồ trôi trên những nóc nhà

Và một con Sơn ca mất giọng

rúc sâu trong da thịt chúng ta

(0g17 phút)

 

So sánh thơ Nguyễn Quang Thiều bây giờ với những tập đã in trước đây, ta thấy, ở những bài thơ có liên tưởng mở và vang vọng cảm xúc, thơ của ông ngày càng tinh lọc, nén chặt, và cũng quyến rũ hơn. Đây là đoạn thơ trước đây, trích trong tập "Cây ánh sáng" (NXB Hội Nhà văn, 2009):

Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng

Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường…

(Cây ánh sáng)

 

Và, đây là đoạn trong "Nhật ký người xem đồng hồ":

Dưới tán cây chiều nay hai người im lặng

Những hạt cây xếp bên nhau chuẩn bị khai mùa

Và bầy chim mỏ ngà từ trời xanh đậu xuống

Tán cây vàng

                      Nhặt họ

                                   Bay đi.

(Những hạt cây)

 

Dõi theo thời gian được ghi dưới mỗi bài thơ cho thấy, đa số những bài trong "Nhật ký người xem đồng hồ" được sáng tác trong thời gian gần đây. Ngoài ra, một số bài được viết rải rác từ thời điểm ra đời tập thơ "Ngôi nhà tuổi 17" (1990) đến nay, nhưng chúng có cùng một phong cách nên được xếp chung trong tập thơ này.

Tập thơ mới của Nguyễn Quang Thiều là sự bung phá mạnh mẽ trong trào lưu cách tân thi pháp, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới thơ hiện nay. Một số bài trong tập tựa những mũi khoan dở dang, những tảng đá lớn vừa được khai phá. Tôi coi đó là sự dấn thân mạnh mẽ, dũng cảm của người đi khai sơn phá thạch. Đây là cuốn "Nhật ký" thơ của một Thi sĩ đã đặt nền móng cho khuynh hướng cách tân thơ Việt sau 1986. Với thủ pháp làm lệch nhịp thời gian, cuốn nhật ký bằng thơ này tràn đầy những hình ảnh ba chiều, tiếp nối nhau và khúc xạ, chuyển động theo một dòng chảy cuộn xiết. Dù vạm vỡ hay mỏng mảnh, mọi bài thơ của Nguyễn Quang Thiều đều sáng rỡ và vững chắc một thi pháp riêng biệt, âm vang giọng thơ độc đáo của một tác giả tầm cỡ của thơ Việt Nam đương đại.

 

Hải Phòng, 11/11/2023

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm