TIN TỨC

Người lính làm nên huyền thoại

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-08-25 22:58:23
mail facebook google pos stwis
339 lượt xem

Trần Nguyên Trang 

 

Phải nói, Trần Ngọc Trác là một cây viết tâm huyết với đề tài truyền thống cách mạng. Gặp  ông cách nay đã vài chục năm, tôi vẫn nhớ dáng đi nhanh nhẹn, giọng nói trầm ấm và ánh nhìn thân thiện của nhà văn. Lúc ấy Trần Ngọc Trác là cán bộ của Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Lâm Đồng. Đã đọc Trần Ngọc Trác nhưng thực sự khi ông đảm nhiệm làm phim " Người lính làm nên huyền thoại "  về Đại tá Lê Kích (cậu ruột thứ Tám của vợ tôi), chúng tôi mới gắn bó  như anh em thân thiết. 

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Đại tá Lê Kích

 

Mới đây, Trần Ngọc Trác gửi tặng tôi tập sách mới - tập bút ký " Người nặng tình với đất nước Triệu Voi" ( NXB Hội Nhà văn- 2023) viết về Đại tá 

Lê Kích. Cuốn sách mỏng,  nhưng thông tin và nghĩa tình dầy nặng. Tôi càng trân quý tấm lòng và nhiệt huyết của một người cầm viết luôn tâm nguyện tôn vinh, lan tỏa những con người, những điều không thể mất.

 

 NGƯỜI LÍNH LÀM NÊN HUYỀN THOẠI

 

Đó là lời nhận xét của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Đại tá Lê Kích. Cách đây hơn hai 

chục năm, tôi có may mắn được "mục sở thị"  cuộc gặp giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá Lê Kích do chính biên tập viên Trần Ngọc Trác thu xếp. Trong cuộc gặp thân tình, ấm áp ấy, tổ làm phim của Trần Ngọc Trác và chúng tôi được chứng kiến tình cảm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với người cán bộ mà Đại tướng luôn tin tưởng và trực tiếp giao nhiệm vụ nhiều lần. Sách đã dẫn của Trần Ngọc Trác kể lại, cuộc gặp cuối cùng của Đại tướng và ông Lê Kích vào năm 2001 tại nhà khách T78 (TP HCM).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ôm Đại tá Lê Kích nhận xét: " Tôi đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Kích nhiều lần. Nhưng tôi nhớ mãi 3 lần. Lần thứ nhất trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Tiểu đoàn 436 do Lê Kích làm tiểu đoàn trưởng là đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ, mở ra một hướng quan trọng trong chiến cục Đông Xuân, góp phần thiết thực vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Lần thứ 2, tháng 12 năm 1960, khi Lê Kích đang làm Tư lệnh Pháo binh Quân khu Tây Bắc, chỉ trong vài giờ tôi gọi Lê Kích về Hà Nội và ngay lập tức điều anh bay sang giúp bạn Lào tiến công thần tốc đập tan căn cứ quân sự Cánh Đồng Chum, giải phóng tỉnh Xiêng Khoảng và khai thông đường số 7. Lần thứ 3, tháng 4 năm 1961, Lê Kích đang làm Trưởng đoàn cố vấn quân sự Quân khu Hạ Lào, tôi giao nhiệm vụ cho Lê Kích làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 9, khai thông đường Tây Trường Sơn. Sau này, Lê Kích làm Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh, Tư lệnh Sư đoàn 325 C ở Quảng Trị mùa hè năm 1972..., tôi luôn theo dõi quá trình chỉ huy của đồng chí. Do đó, tôi cho rằng Lê Kích là một con người kiên cường, có quyết tâm lớn, không lùi bước trước khó khăn; là một con người hoàn thành tốt nhiệm vụ trong những lúc khó khăn nhất." Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhìn sâu vào mắt người lính già ( đang khóc ), giọng Đại tướng hào sảng : " Dân tộc ta đã làm được những việc mà có lúc chúng ta tưởng không làm được. Coi như là huyền thoại. Lê Kích là một trong những người của dân tộc Việt Nam làm nên huyền thoại ấy".

Với hơn 100 trang sách nhỏ, "Người nặng tình với đất nước Triệu Voi " của Trần Ngọc Trác không chỉ kể về những tháng năm gian khổ ác liệt của Đại tá Lê Kích trên đất bạn Lào mà những gì lấp lánh nhất trong cuộc đời quân ngũ của " người lính làm nên huyền thoại " Lê Kích được tác giả lột tả sâu sắc. 

 

Sinh ra tại làng An Thạch, xã Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Lê Kích tham gia đội du kích Ba Tơ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, chi đội Lê Trung Đình do Lê Kích chỉ huy đã cho nổ quả mìn đầu tiên , mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nha Trang. Cứ thế, ông Lê Kích được giao những nhiệm vụ khi khó khăn nhất trong các chiến dịch lớn của quân đội ta: Chỉ huy trưởng đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954; Cố vấn  Bộ Tổng Tham mưu Bộ đội Pha thét Lào; Chỉ huy trưởng mặt trận  tiến công và giải phóng Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng; Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 9; Tư lệnh hai Sư đoàn bộ binh số 2 và số 325C...

Những người lính tham gia Chiến dịch Quảng Trị - mùa hè đỏ lửa năm 1972 không thể nào quên vị Tư lệnh Sư đoàn kiên cường và giàu lòng nhân ái . Những mẩu chuyện đời thường về Tư lệnh Lê Kích 

đến nay vẫn như huyền thoại.

 

NHƯ NGƯỜI CHA THÂN YÊU CỦA CHÚNG TÔI.

 

Tôi gặp ông Lê Kích lần đầu năm 1980 khi tôi quen cháu gái của ông là vợ tôi bây giờ. Tôi nhớ mãi, hôm ấy ông mặc quân phục màu xám mang quân hàm Thượng tá, mũ vải mền có ngôi sao lấp lánh. Ông bắt tay và nhìn thẳng vào mắt tôi: " Thế nào nhà báo quân đội định làm rể nhà này phải không ?" . Câu chuyện giữa chúng tôi càng lúc càng sôi nổi. Ông hỏi thăm gia cảnh, công việc của tôi. Cả những ý định sắp tới của tôi khi cuộc chiến ở biên giới Tây Nam chưa dứt.

Một năm sau, đúng như ông đã hứa,  ngày cưới của chúng tôi, ông có mặt. Ông vẫn bận bộ quân phục màu xám, đội mũ vải mền có ngôi sao lấp lánh. Thời ấy đám cưới bộ đội hầu hết đều thế. Tôi còn nhớ các thủ trưởng trực tiếp của tôi: Trung tá Minh Khoa, Trung tá Đoàn Thành, Đại úy Mai Bá Thiện...cũng " quân phục chỉnh tề " đón dâu và dự tiệc cưới.  

 

Năm 1988 về báo QĐND, tôi thường xuyên lên Học viện Lục quân, nơi ông Lê Kích - Cậu Tám của chúng tôi đang làm Cục trưởng Cục Huấn luyện - Tác chiến. Cậu cháu người lính gặp nhau chuyện chiến trường, chuyện hậu phương không dứt. Khi ông Tám nghỉ hưu, lần nào lên Đà Lạt, chúng tôi cũng đến thăm ông. Nghỉ hưu, ông ở nhà chăm vợ và con gái- cả hai người đều ốm yếu, có hoàn cảnh đặc biệt. 

Nhìn vị Tư lệnh Sư đoàn chỉ huy đánh Nam dẹp Bắc, được coi là Sapaep của Việt Nam lọm khọm chăm vợ con giữa chiều đông cao nguyên mà tôi không cầm lòng được. Ông tự đi chợ, nấu ăn, giặt giũ và làm tất cả những gì có thể làm được cho vợ và con. Có chuyến, sắp xếp được tôi mời ông theo xe của đơn vị về TP HCM thăm cháu con hoặc vào kiểm tra sức khỏe tại Quân y viện 175. Ông thường chọn ngôi nhà nhỏ của chúng tôi cạnh bệnh viện làm nơi lưu trú. Chúng tôi coi ông như người cha thân yêu ruột thịt của mình. Đáp lại, ông cũng tự nhiên như ở nhà mình nên tôi có dịp cùng ông tiếp khách, đó là những người bạn chiến đấu một thời của ông. Câu  chuyện của thế hệ cha anh giúp ích cho tôi rất nhiều trong công việc. Những năm cuối đời, ông Lê Kích mắc căn bệnh khó chữa phải về Quân y viện 175 điều trị dài ngày. Như  con gái của ông, hàng ngày vợ tôi đi chợ, nấu các món mà ông ưa thích. Chăm sóc ông như thân phụ của mình.

Ngày ông về với tổ tiên,chúng tôi " hành quân " cấp tốc lên Đà Lạt để vĩnh biệt ông. Nhìn dòng người như dòng sông cuộn chảy từ khắp nơi đổ về tiễn biệt ông mà lòng trào dâng cảm xúc.

Một người lính làm nên huyền thoại như Đại tướng Võ Nguyên Giáp ban tặng - một chỉ huy quân sự xuất sắc gắn liền với những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước và QĐND VN...,lại là một người lính Bộ đội Cụ Hồ bình dị. 

Theo thói quen, sau ngày ông đi xa, mỗi lần lên thành phố ngàn hoa, chúng tôi đều  ra nghĩa trang  thắp hương, trò chuyện cùng ông.

Trong tiếng thông reo như gió hú và cái lạnh ngọt ngào, chúng tôi vẫn thấy như ông đang nheo mắt, mỉm cười.

 

Cảm ơn nhà văn Trần Ngọc Trác đã khơi gợi,lan tỏa những con người, những cuộc đời và những điều không thể mất./.

 

Mùa Thu 2023

T.N.T 

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm