TIN TỨC

Cao Bá Quát và Lý Bạch: Tương đồng kỳ lạ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-31 23:36:48
mail facebook google pos stwis
2261 lượt xem

Cao Bá Quát (1809 – 1855) và Lý Bạch (701 – 762) đều là thi sĩ cổ điển nổi tiếng trong hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc. Tên tuổi và gia tài văn chương của hai ông là niềm tự hào của mỗi dân tộc.

Cùng sống trong chế độ phong kiến, nhưng hai thi sĩ có niên đại cách nhau tới 1100 năm. Tuy vậy, gần đây, khi đọc lại tiểu sử và tác phẩm của Cao Bá Quát, tôi bỗng nhận ra có nhiều điểm tương đồng/gặp gỡ kỳ lạ về cuộc đời và tác phẩm so với Lý Bạch. Năm nay, nhân vừa tròn 210 năm ngày sinh của Cao Bá Quát, xin được cùng nhớ tới hai ông qua bài viết nhỏ này.

Cùng múa kiếm và uống rượu

Từ xưa đến nay, trong lịch sử hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc, rất hiếm những thi sĩ có khả năng dùng kiếm thuật, giỏi về võ nghệ. Thế nhưng cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều có một tinh thần võ học. Lý Bạch học múa kiếm từ năm 10 tuổi và cả tài thơ lẫn tài múa kiếm được coi là ngang ngửa như nhau.

Năm 22 tuổi (723), Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Các tác phẩm của ông có nhiều câu nói tới việc dùng đao kiếm: Đình bôi đầu trợ bất năng thực/ Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên [Dằn chén ném đũa nuốt không được/ Vung gươm bốn phía lòng mênh mang] (Hành lộ nan), Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu/ Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu [Rút đao chém nước, nước chảy mạnh/ Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm] (Tuyên Châu Tạ Diểu lâu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân).

Cao Bá Quát cũng được coi là người văn võ song toàn. Chất võ học trong ông thậm chí còn biểu hiện quyết liệt đến mức chiêu binh mãi mã chống lại triều đình. Ông từng trực tiếp đem quân tấn công nhiều huyện lỵ như phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, huyện thành Tam Dương, phủ Quốc Oai và rồi cuối cùng trúng đạn chết giữa trận tiền.


Cao Bá Quát (1808-1855)

Trong tác phẩm, Cao Bá Quát cũng để lại những câu thơ thật hay về kiếm: Ỷ chẩm khan trường kiếm/ Hô đăng kiểm tệ cừu [Tựa gối nhìn thanh kiếm dài/ Gọi đèn xem lại áo bông rách] (Độc dạ cảm hoài), Trường giang như kiếm lập thanh thiên [Sông dài như kiếm dựng trời xanh] (Hiểu quá Hương giang), Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ/ Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu [Trượng phu chống kiếm đi thì đi/ Đừng buồn như đàn bà trong lúc phân ly] (Trà Giang thu nguyệt ca)

Cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều là những người hay rượu. Lý Bạch nổi tiếng về rượu đến độ cùng 7 người bạn khác lập thành nhóm Tửu trung bát tiên.

Khi được Đường Minh Hoàng mời vào cung, ông say sưa suốt ngày đến nỗi khi vua có việc sai người đến gọi mà Lý Bạch vẫn còn đang say: Thiên tử hô lai bất thượng thuyền/ Tự xưng thần thị tửu trung tiên [Vua cho thuyền tới đón mà không chịu lên/Còn nói rằng mình là vị tiên say rượu] (Ẩm trung bát tiên ca – Đỗ Phủ).

Khi rời khỏi cung vua để tiếp tục ngao du giang hồ, Lý Bạch không nhận tiền bạc, chỉ xin vua ban cho quyền uống rượu miễn phí ở bất cứ quán rượu nào mà ông đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố nhà nước thanh toán sau. Trong gia tài 1.800 bài thơ để lại, Lý Bạch có rất nhiều bài thơ về uống rượu và đa số trong đó đều là kiệt tác.

Có thể kể tới các bài điển hình như: Tương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, Nguyệt hạ độc chước (4 bài), Xuân nhật độc chước, Đối tửu… Còn Cao Bá Quát cũng có rất nhiều những câu thơ, bài thơ tả về việc uống rượu.

Nếu như Lý Bạch từng cất chén mời trăng sáng trong bài Nguyệt hạ độc chước thì Cao Bá Quát cũng có câu: Cử bôi thí yêu nguyệt/ Nguyệt nhập bôi trung hành (Cất chén thử mời trăng/ Trăng đi vào trong chén).

Nếu như Lý Bạch nhìn nước sông Hoàng Hà như từ trên trời đổ xuống mà cảm khái thành bài Tương tiến tửu thì Cao Bá Quát  cũng muốn mời ngọn sóng Hồ Tây một chén rượu: Khuyến nhĩ trừng ba tửu nhất chi/ Thiếu niên dư tối giải nhân di [Mời sóng vì ta cạn chén đưa/Tuổi xanh ta chỉ thích vui đùa] (Du Tây Hồ bát tuyệt).

Lý Bạch có những người bạn uống rượu như Sầm Phu tử, Đan Khâu sinh và đưa luôn tên bằng hữu vào những bài thơ uống rượu thì Cao Bá Quát cũng có những người bạn để uống rượu thật say với nhau (thống ẩm) như ông Vũ Hoài Phủ, Bùi Nhị Minh.

Cao Bá Quát còn khác Lý Bạch ở chỗ, thơ ông có cả những chén rượu buồn bã, xót xa: Lệ tận tôn nhưng lục/ Tâm hôi chúc tự hồng [Nước mắt dù cạn, bình rượu vẫn còn/ Lửa lòng đã tắt, ngọn đèn cứ cháy] (Du Hội An phùng Vị Thành ca giả), Thư thành hận tự không đề huyết/ Tửu túy ly bôi tức mộng hồn [Dòng thơ oán hận lệ hòa máu/Chén rượu phân kỳ lòng dễ say] (Ký hận).

Cùng ngồi tù

Trong cuộc đời, cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều hơn một lần vướng vòng lao lý. Khoảng năm 756, Tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời Lý Bạch về phủ chơi.

Sau đó Lân làm phản, Lý Bạch cũng bị bắt và khép vào án tử hình. Lúc sắp bị hành hình, may sao có hai viên quan quý trọng tài thơ Lý Bạch là Tuyên úy đại sứ Thôi Chí Hoán và Ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi.

Lý Bạch nhân đó trốn thoát nhưng một năm sau (757) lại bị triều đình bắt lại. Lúc này, người từng được ông cứu năm xưa là Vương Chí Hoán ra sức gỡ tội cho ông, Lý Bạch được giảm án xuống thành tội đi đày. Còn Cao Bá Quát cũng bị ngồi tù gần 3 năm (từ 1841 đến 1843) vì tội dùng son với muội đèn chữa một số bài thi bị phạm trường quy.

Cao Bá Quát cũng bị khép vào tội tử hình (trảm quyết) nhưng sau giảm án xuống còn ngồi tù (giảo giam hậu). Nhiều sử liệu ghi lại, suốt thời gian bị giam cầm, Cao Bá Quát chịu nhiều nhục hình tra tấn. Cuối năm 1843, ông thoát tù nhưng bị đày đi dương trình hiệu lực (tức phục dịch để lấy công chuộc tội) tận Indonesia.

Nhiều bài thơ nổi tiếng đã được Cao Bá Quát sáng tác trong lúc bị giam cầm như Trường giang thiên (Bài ca cái gông dài, 3 bài), Đằng tiên ca (Bài ca cái roi song), Bệnh trung (Trong lúc ốm), Tội định (Khép tội), Chính nguyệt nhị thập nhất nhật di tống thừa thiên ngục tỏa cấm (Ngày hai mốt tháng giêng, bị giải sang giam ở ngục Thừa Thiên)…


 Lý Bạch (701-762)

Cùng chết bi tráng khác thường

Lý Bạch và Cao Bá Quát còn giống nhau ở chỗ đều để lại trong dân gian vô số những giai thoại, những câu chuyện được truyền tụng, những điển tích văn chương. Nổi bật trong số đó phải kể tới những giai thoại xoay quanh cái chết của hai ông.

Về Lý Bạch, tương truyền một đêm ông say rượu, nhìn trăng đáy nước đẹp quá, bèn nhảy xuống bắt trăng mà chết đuối. Địa điểm này được coi là ở ghềnh Thái Thạch, huyện Đang Đồ, tỉnh An Huy trong một đêm rằm.

Về sau tại nơi này, người ta dựng lên một cái đài lấy tên là Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng). Mười thế kỷ sau, Trương Trào trong kiệt tác U mộng ảnh hạ bút một câu: “Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mỹ nhân không nên thấy chết yểu” chính là một phần nhớ về cái chết của Lý Bạch được tương truyền trong dân gian.

Cũng có giai thoại cho rằng, Lý Bạch đã tự tử mà chết. Còn với Cao Bá Quát, các tài liệu sử chính thống ghi rằng ông bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận vào tháng Chạp năm Giáp Dần (1854), dương lịch là tháng Một năm 1855.

Các giai thoại trong dân gian thì kể rằng, ông bị giam trong nhà ngục trước khi hành hình. Lúc ngồi chờ án, ông có hai câu tức cảnh đầy khí phách: Một chiếc cùm lim chân có đế/ Ba vòng xích sắt bước thì vương.

Trước lúc hành hình, ông tiếp tục đọc hai câu thơ cuối cùng: Ba hồi trống giục đù cha kiếp/ Một nhát gươm khua bỏ mẹ đời. Cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều được dân gian phong là tiên, thánh. Lý Bạch được mệnh danh là Thi tiên còn Cao Bá Quát được mệnh danh là Thánh Quát.

Nếu như Lý Bạch được vua Đường Huyền Tông vô cùng ưu ái thì vua Dực Tông cũng không tiếc lời khen ngợi bốn tay cự phách trên thi đàn đương thời: Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán/Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.

Cùng có gia tài thi ca đồ sộ và những cảm hứng tương đồng

Di sản thi ca của Lý Bạch và Cao Bá Quát để lại đều là những con số vô cùng đồ sộ, tính bằng đơn vị nghìn bài.

Nếu như Lý Bạch được coi là đã để lại cho đời khoảng 1.800 bài thơ thì di sản Cao Bá Quát còn lại cũng lên tới con số 1.353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Cả hai ông đều được coi là đã thất lạc một số lớn các tác phẩm. Lý Bạch thất lạc tác phẩm vì không chịu lưu giữ còn Cao Bá Quát thất lạc tác phẩm do lệnh của triều đình bắt thiêu hủy, không cho phép tàng trữ.

Thế nhưng chỉ với những gì còn lại cũng đủ để tên tuổi hai ông trở thành bất tử trong hai nền văn học. Thơ ca của Lý Bạch và Cao Bá Quát đều có chất hào hùng, khí phách, cảm hứng thi ca khi thì mênh mông rộng lớn, lúc lại lắng đọng tình cảm.

Cả hai đều có những vần thơ “đăng cao” bát ngát: Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn (Độc tọa Kính Đình san – Lý Bạch); Ngã dục đăng cao sầm/ Hạo ca ký vân thủy [Ta muốn lên đỉnh núi/Hát vang gửi nước mây] (Quá Dục Thúy sơn – Cao Bá Quát).

Cả hai đều có những câu thơ thể hiện tình cảm nhớ thương đôi lứa, ân tình phu thê, nhung nhớ quê hương: Thiên trường lộ viễn hồn phi khổ/ Mộng hồn bất đáo quan sơn nan (Trường tương tư – Lý Bạch), Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương (Tĩnh dạ tư – Lý Bạch), Nhân quân phỏng gia thất/ Phong vũ cộng triêm khâm [Nhân tiện nhắn bác hỏi thăm nhà tôi/ Trong buổi gió mưa này, ai mà chẳng nước mắt thấm áo] (Vãn lưu nguyệt trì Bắc hành – Cao Bá Quát)

Sức sống và giá trị các tác phẩm của Lý Bạch và Cao Bá Quát là điều đã được khẳng định. Cả hai đều là những tên tuổi lớn còn sống mãi trong nền văn học của mỗi dân tộc. Chỉ khác một điều, Lý Bạch vẫn còn lưu lại được những hậu duệ của mình cho đời sau; còn với Cao Bá Quát, ông đã bị triều đình tru di tam tộc, không còn hậu duệ.

Nhưng nói theo cách của Trúc Khê Ngô Văn Triện khi viết về Cao Bá Quát thì: “Người đời chỉ biết Chu Thần gây ra cái họa diệt tộc, làm toàn họ Cao phải chết. Nhưng ít ai nghĩ được rằng, chính ông chứ không phải ai khác đã làm họ Cao sống mãi”.

 Đỗ Anh Vũ/Văn Nghệ Công An

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm