TIN TỨC

Cao Bá Quát và Lý Bạch: Tương đồng kỳ lạ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-31 23:36:48
mail facebook google pos stwis
2329 lượt xem

Cao Bá Quát (1809 – 1855) và Lý Bạch (701 – 762) đều là thi sĩ cổ điển nổi tiếng trong hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc. Tên tuổi và gia tài văn chương của hai ông là niềm tự hào của mỗi dân tộc.

Cùng sống trong chế độ phong kiến, nhưng hai thi sĩ có niên đại cách nhau tới 1100 năm. Tuy vậy, gần đây, khi đọc lại tiểu sử và tác phẩm của Cao Bá Quát, tôi bỗng nhận ra có nhiều điểm tương đồng/gặp gỡ kỳ lạ về cuộc đời và tác phẩm so với Lý Bạch. Năm nay, nhân vừa tròn 210 năm ngày sinh của Cao Bá Quát, xin được cùng nhớ tới hai ông qua bài viết nhỏ này.

Cùng múa kiếm và uống rượu

Từ xưa đến nay, trong lịch sử hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc, rất hiếm những thi sĩ có khả năng dùng kiếm thuật, giỏi về võ nghệ. Thế nhưng cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều có một tinh thần võ học. Lý Bạch học múa kiếm từ năm 10 tuổi và cả tài thơ lẫn tài múa kiếm được coi là ngang ngửa như nhau.

Năm 22 tuổi (723), Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Các tác phẩm của ông có nhiều câu nói tới việc dùng đao kiếm: Đình bôi đầu trợ bất năng thực/ Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên [Dằn chén ném đũa nuốt không được/ Vung gươm bốn phía lòng mênh mang] (Hành lộ nan), Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu/ Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu [Rút đao chém nước, nước chảy mạnh/ Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm] (Tuyên Châu Tạ Diểu lâu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân).

Cao Bá Quát cũng được coi là người văn võ song toàn. Chất võ học trong ông thậm chí còn biểu hiện quyết liệt đến mức chiêu binh mãi mã chống lại triều đình. Ông từng trực tiếp đem quân tấn công nhiều huyện lỵ như phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, huyện thành Tam Dương, phủ Quốc Oai và rồi cuối cùng trúng đạn chết giữa trận tiền.


Cao Bá Quát (1808-1855)

Trong tác phẩm, Cao Bá Quát cũng để lại những câu thơ thật hay về kiếm: Ỷ chẩm khan trường kiếm/ Hô đăng kiểm tệ cừu [Tựa gối nhìn thanh kiếm dài/ Gọi đèn xem lại áo bông rách] (Độc dạ cảm hoài), Trường giang như kiếm lập thanh thiên [Sông dài như kiếm dựng trời xanh] (Hiểu quá Hương giang), Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ/ Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu [Trượng phu chống kiếm đi thì đi/ Đừng buồn như đàn bà trong lúc phân ly] (Trà Giang thu nguyệt ca)

Cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều là những người hay rượu. Lý Bạch nổi tiếng về rượu đến độ cùng 7 người bạn khác lập thành nhóm Tửu trung bát tiên.

Khi được Đường Minh Hoàng mời vào cung, ông say sưa suốt ngày đến nỗi khi vua có việc sai người đến gọi mà Lý Bạch vẫn còn đang say: Thiên tử hô lai bất thượng thuyền/ Tự xưng thần thị tửu trung tiên [Vua cho thuyền tới đón mà không chịu lên/Còn nói rằng mình là vị tiên say rượu] (Ẩm trung bát tiên ca – Đỗ Phủ).

Khi rời khỏi cung vua để tiếp tục ngao du giang hồ, Lý Bạch không nhận tiền bạc, chỉ xin vua ban cho quyền uống rượu miễn phí ở bất cứ quán rượu nào mà ông đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố nhà nước thanh toán sau. Trong gia tài 1.800 bài thơ để lại, Lý Bạch có rất nhiều bài thơ về uống rượu và đa số trong đó đều là kiệt tác.

Có thể kể tới các bài điển hình như: Tương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, Nguyệt hạ độc chước (4 bài), Xuân nhật độc chước, Đối tửu… Còn Cao Bá Quát cũng có rất nhiều những câu thơ, bài thơ tả về việc uống rượu.

Nếu như Lý Bạch từng cất chén mời trăng sáng trong bài Nguyệt hạ độc chước thì Cao Bá Quát cũng có câu: Cử bôi thí yêu nguyệt/ Nguyệt nhập bôi trung hành (Cất chén thử mời trăng/ Trăng đi vào trong chén).

Nếu như Lý Bạch nhìn nước sông Hoàng Hà như từ trên trời đổ xuống mà cảm khái thành bài Tương tiến tửu thì Cao Bá Quát  cũng muốn mời ngọn sóng Hồ Tây một chén rượu: Khuyến nhĩ trừng ba tửu nhất chi/ Thiếu niên dư tối giải nhân di [Mời sóng vì ta cạn chén đưa/Tuổi xanh ta chỉ thích vui đùa] (Du Tây Hồ bát tuyệt).

Lý Bạch có những người bạn uống rượu như Sầm Phu tử, Đan Khâu sinh và đưa luôn tên bằng hữu vào những bài thơ uống rượu thì Cao Bá Quát cũng có những người bạn để uống rượu thật say với nhau (thống ẩm) như ông Vũ Hoài Phủ, Bùi Nhị Minh.

Cao Bá Quát còn khác Lý Bạch ở chỗ, thơ ông có cả những chén rượu buồn bã, xót xa: Lệ tận tôn nhưng lục/ Tâm hôi chúc tự hồng [Nước mắt dù cạn, bình rượu vẫn còn/ Lửa lòng đã tắt, ngọn đèn cứ cháy] (Du Hội An phùng Vị Thành ca giả), Thư thành hận tự không đề huyết/ Tửu túy ly bôi tức mộng hồn [Dòng thơ oán hận lệ hòa máu/Chén rượu phân kỳ lòng dễ say] (Ký hận).

Cùng ngồi tù

Trong cuộc đời, cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều hơn một lần vướng vòng lao lý. Khoảng năm 756, Tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời Lý Bạch về phủ chơi.

Sau đó Lân làm phản, Lý Bạch cũng bị bắt và khép vào án tử hình. Lúc sắp bị hành hình, may sao có hai viên quan quý trọng tài thơ Lý Bạch là Tuyên úy đại sứ Thôi Chí Hoán và Ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi.

Lý Bạch nhân đó trốn thoát nhưng một năm sau (757) lại bị triều đình bắt lại. Lúc này, người từng được ông cứu năm xưa là Vương Chí Hoán ra sức gỡ tội cho ông, Lý Bạch được giảm án xuống thành tội đi đày. Còn Cao Bá Quát cũng bị ngồi tù gần 3 năm (từ 1841 đến 1843) vì tội dùng son với muội đèn chữa một số bài thi bị phạm trường quy.

Cao Bá Quát cũng bị khép vào tội tử hình (trảm quyết) nhưng sau giảm án xuống còn ngồi tù (giảo giam hậu). Nhiều sử liệu ghi lại, suốt thời gian bị giam cầm, Cao Bá Quát chịu nhiều nhục hình tra tấn. Cuối năm 1843, ông thoát tù nhưng bị đày đi dương trình hiệu lực (tức phục dịch để lấy công chuộc tội) tận Indonesia.

Nhiều bài thơ nổi tiếng đã được Cao Bá Quát sáng tác trong lúc bị giam cầm như Trường giang thiên (Bài ca cái gông dài, 3 bài), Đằng tiên ca (Bài ca cái roi song), Bệnh trung (Trong lúc ốm), Tội định (Khép tội), Chính nguyệt nhị thập nhất nhật di tống thừa thiên ngục tỏa cấm (Ngày hai mốt tháng giêng, bị giải sang giam ở ngục Thừa Thiên)…


 Lý Bạch (701-762)

Cùng chết bi tráng khác thường

Lý Bạch và Cao Bá Quát còn giống nhau ở chỗ đều để lại trong dân gian vô số những giai thoại, những câu chuyện được truyền tụng, những điển tích văn chương. Nổi bật trong số đó phải kể tới những giai thoại xoay quanh cái chết của hai ông.

Về Lý Bạch, tương truyền một đêm ông say rượu, nhìn trăng đáy nước đẹp quá, bèn nhảy xuống bắt trăng mà chết đuối. Địa điểm này được coi là ở ghềnh Thái Thạch, huyện Đang Đồ, tỉnh An Huy trong một đêm rằm.

Về sau tại nơi này, người ta dựng lên một cái đài lấy tên là Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng). Mười thế kỷ sau, Trương Trào trong kiệt tác U mộng ảnh hạ bút một câu: “Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mỹ nhân không nên thấy chết yểu” chính là một phần nhớ về cái chết của Lý Bạch được tương truyền trong dân gian.

Cũng có giai thoại cho rằng, Lý Bạch đã tự tử mà chết. Còn với Cao Bá Quát, các tài liệu sử chính thống ghi rằng ông bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận vào tháng Chạp năm Giáp Dần (1854), dương lịch là tháng Một năm 1855.

Các giai thoại trong dân gian thì kể rằng, ông bị giam trong nhà ngục trước khi hành hình. Lúc ngồi chờ án, ông có hai câu tức cảnh đầy khí phách: Một chiếc cùm lim chân có đế/ Ba vòng xích sắt bước thì vương.

Trước lúc hành hình, ông tiếp tục đọc hai câu thơ cuối cùng: Ba hồi trống giục đù cha kiếp/ Một nhát gươm khua bỏ mẹ đời. Cả Lý Bạch và Cao Bá Quát đều được dân gian phong là tiên, thánh. Lý Bạch được mệnh danh là Thi tiên còn Cao Bá Quát được mệnh danh là Thánh Quát.

Nếu như Lý Bạch được vua Đường Huyền Tông vô cùng ưu ái thì vua Dực Tông cũng không tiếc lời khen ngợi bốn tay cự phách trên thi đàn đương thời: Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán/Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường.

Cùng có gia tài thi ca đồ sộ và những cảm hứng tương đồng

Di sản thi ca của Lý Bạch và Cao Bá Quát để lại đều là những con số vô cùng đồ sộ, tính bằng đơn vị nghìn bài.

Nếu như Lý Bạch được coi là đã để lại cho đời khoảng 1.800 bài thơ thì di sản Cao Bá Quát còn lại cũng lên tới con số 1.353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Cả hai ông đều được coi là đã thất lạc một số lớn các tác phẩm. Lý Bạch thất lạc tác phẩm vì không chịu lưu giữ còn Cao Bá Quát thất lạc tác phẩm do lệnh của triều đình bắt thiêu hủy, không cho phép tàng trữ.

Thế nhưng chỉ với những gì còn lại cũng đủ để tên tuổi hai ông trở thành bất tử trong hai nền văn học. Thơ ca của Lý Bạch và Cao Bá Quát đều có chất hào hùng, khí phách, cảm hứng thi ca khi thì mênh mông rộng lớn, lúc lại lắng đọng tình cảm.

Cả hai đều có những vần thơ “đăng cao” bát ngát: Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn (Độc tọa Kính Đình san – Lý Bạch); Ngã dục đăng cao sầm/ Hạo ca ký vân thủy [Ta muốn lên đỉnh núi/Hát vang gửi nước mây] (Quá Dục Thúy sơn – Cao Bá Quát).

Cả hai đều có những câu thơ thể hiện tình cảm nhớ thương đôi lứa, ân tình phu thê, nhung nhớ quê hương: Thiên trường lộ viễn hồn phi khổ/ Mộng hồn bất đáo quan sơn nan (Trường tương tư – Lý Bạch), Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương (Tĩnh dạ tư – Lý Bạch), Nhân quân phỏng gia thất/ Phong vũ cộng triêm khâm [Nhân tiện nhắn bác hỏi thăm nhà tôi/ Trong buổi gió mưa này, ai mà chẳng nước mắt thấm áo] (Vãn lưu nguyệt trì Bắc hành – Cao Bá Quát)

Sức sống và giá trị các tác phẩm của Lý Bạch và Cao Bá Quát là điều đã được khẳng định. Cả hai đều là những tên tuổi lớn còn sống mãi trong nền văn học của mỗi dân tộc. Chỉ khác một điều, Lý Bạch vẫn còn lưu lại được những hậu duệ của mình cho đời sau; còn với Cao Bá Quát, ông đã bị triều đình tru di tam tộc, không còn hậu duệ.

Nhưng nói theo cách của Trúc Khê Ngô Văn Triện khi viết về Cao Bá Quát thì: “Người đời chỉ biết Chu Thần gây ra cái họa diệt tộc, làm toàn họ Cao phải chết. Nhưng ít ai nghĩ được rằng, chính ông chứ không phải ai khác đã làm họ Cao sống mãi”.

 Đỗ Anh Vũ/Văn Nghệ Công An

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm