TIN TỨC

Nguyễn Trãi và một mỹ học mùa xuân!

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-17 23:01:32
mail facebook google pos stwis
2482 lượt xem

Với các nhà tư tưởng lớn, chất vàng triết lý luôn lấp lánh phát sáng qua mỗi hình tượng, ngôn từ mà họ sử dụng. Nguyễn Trãi kiệt xuất là một trường hợp như vậy. Tư tưởng mỹ học của ông qua chủ đề mùa xuân trong thơ Nôm phải được coi là điểm tựa văn hóa cho hôm nay.

Khác với thơ cổ vịnh cảnh hoặc giao đãi bạn bè, thơ Nguyễn Trãi thể hiện một quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh, một cách sống, lối sống rất mới. Nhờ vậy, thơ ông mở ra về không gian, nới rộng về thời gian và một chiều sâu thời thế và nhân thế. Thơ mùa xuân Ức Trai là những suy ngẫm sâu sắc về thiên chức nghệ thuật: “Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi/ Ưa mày vì tiết sạch hơn người/ Gác Đông ắt đã từng làm khách/ Há những Bô tiên kết bạn chơi/… Bóng thua ánh nước động người vay/ Lịm đưa hương, một nguyệt hay/ Huống lại bảng xuân xưa chiếm được/ So tam hữu chẳng bằng mày” (“Mai”).

“Gác Đông” tức Đông các, một biểu tượng văn hóa chỉ nơi để quan Tể tướng chiêu hiền đãi sĩ. Hoa mai “từng làm khách” nơi này tức hoa mai cũng được nâng lên thành bậc hiền sĩ như con người xuất chúng. Vì thế mới có câu sau “Há những Bô tiên kết bạn chơi” có nghĩa đâu phải chỉ kết bạn với các vị tiên đáng kính (bô) mà còn nhiều bạn tiên nữa. Hoa mai đẹp sang trọng, thanh khiết, đài các, luôn nở trước mọi thứ hoa, lại đứng đầu bảng các loại hoa xuân nên chiếm “bảng xuân”. Toát ra một quan niệm hoa mai nghệ thuật luôn phải đi trước để làm đẹp, làm sang cho mùa xuân cuộc đời. Có thể còn một ý này: tiên trong ý niệm văn hóa phương Đông luôn sống mãi, hạnh phúc mãi mà hoa mai kết bạn với các vị tiên ấy thì hoa mai nghệ thuật cũng luôn trường tồn với đời sống (!?).

Nghệ thuật phải đánh thức cảm xúc yêu ghét: “Cầm đuốc chơi đêm này khách nói/ Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân” (Cuối xuân). “Tiếng chuông chưa đóng” nghĩa là hãy còn đêm xuân, mà khách xưa (trong tưởng tượng) nói rằng: tiếc xuân nên cầm đuốc chơi đêm! “Tiếng chuông” mang nghĩa ẩn dụ: nghệ thuật phải nhân lên ở con người niềm khát khao được sống nhiều lần trong mùa xuân cuộc đời.

Vì vậy nghệ thuật không thể hời hợt, dửng dưng: “Ba xuân thì được chín mươi ngày/ Sinh vật lòng trời chẳng tây/ Rỉ bảo đông phong hời hợt ít/ Thế thì chớ tiếc, dửng dưng thay” (“Thơ tiếc cảnh 11”). Lời thơ như nhắn gửi nghệ thuật thì phải “chẳng tây” tức không được riêng tư thiên vị, không được “hời hợt”, dửng dưng. Ngày nay người ta hay nói nghệ thuật là sự hy sinh, hết mình. Ức Trai đã nói điều ấy trước nửa thiên niên kỷ!

Mùa xuân là sự hô ứng hòa hợp tuyệt vời giữa con người và tạo vật: “Lầu hồng có khách cầm xuân ở/ Cầm ngọc tay ai dắng dõi thêm” (“Thơ tiếc cảnh 2”). “Cầm xuân” tức giữ mùa xuân lại. “Lầu hồng” đẹp, sang trọng, vương giả, là nơi ở của người đẹp quý phái. “Khách cầm xuân” ở “lầu hồng” là những cô gái đẹp muốn níu giữ mùa xuân. “Cầm ngọc” thì “cầm” là đàn, ý cả câu tả tay người đẹp đánh đàn nghe càng hay thêm. Để tạo nên thế giới nghệ thuật phải có cảnh đẹp (lầu hồng, mùa xuân), có người đẹp tha thiết với cái đẹp (khách cầm xuân), có người tiếp nhận trong tâm trạng chờ đợi, thì tất cả càng đẹp hơn! Đây chính là quan niệm của nghệ thuật hiện đại: cuộc sống – tác giả – tác phẩm – tiếp nhận!

Mỹ học tiếp nhận Nguyễn Trãi thuận chiều với quy luật thời gian: “Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành/ Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” (“Thơ tiếc cảnh 4”). “Lật” nghĩa là lỡ: đã quá tuổi thiếu niên nên lỡ mất “hẹn lành”, lỡ mất bao ước ao, phí hoài bao khát vọng. Để bây giờ hoa nguyệt (cái đẹp) cũng trở thành vô tình với mình. Một sự tiếc nuối cho những ai không biết sống đích thực ở cái thời hồn nhiên mà mê say, để rồi quá lứa…

Ý thơ hiện đại, mang tầm phổ quát để nói với tất cả mọi người, mọi thời. Nó tôn trọng quy luật tồn tại và phát triển của cái đẹp: “Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rơi” (“Thuật hứng 14”). Không ai cưỡng lại được quy luật của thời gian. Cái đẹp cũng vậy. Nhưng nếu biết lấy cái “phúc” làm gốc sẽ bền vững, tự nhiên, trường tồn: “Phúc nhiều sơ bởi nơi ta tích/ Xuân đến tự nhiên mọi vật tươi” (“Bảo kính cảnh giới 11”). “Phúc” ở đây được hiểu là “phúc đức”. Con người “tích phúc”, ắt có hạnh phúc!

Tinh thần mỹ học Nguyễn Trãi luôn cảm nhận cái đẹp trong trạng thái non tơ đang cựa quậy chứ không tròn trịa đã vào thời viên mãn, thậm chí ở thời điểm khởi đầu, bắt đầu: “Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt/ Vườn kín hoa truyền mới lọt tin/ Cành có tinh thần ong chửa thấy/ Tính quen khinh bạc bướm chăng gìn/ Lạc Dương khách ắt thăm thinh nhọc/ Sá mựa cho ai quẩy đến bên” (“Đầu Xuân đắc ý”).

Vì xuân đến chậm nên liễu chưa thấy mặt. “Vườn kín hoa truyền mới lọt tin” tức hoa mới chớm nụ. Hương hoa mới chớm bay ra khỏi vườn kín nên “ong chửa thấy” mà tìm đến nhưng bướm thì chẳng biết giữ gìn nên cứ vô tư đậu vào cành. Đúng là thế giới của cái đẹp “non tơ phong nhụy”, tất cả như đang phập phồng xuân khí. Đất Lạc Dương tức kinh đô Trung Quốc thời Ngũ đại vốn rất đẹp, là nơi tụ hội các thi nhân. Xứ người đẹp thế nhưng nơi này đẹp cũng không kém nên ta chẳng cho (sá mựa) ai quẩy xuân này đến đó mà đem cái đẹp đi. Cũng chỉ mạo muội “diễn nôm” câu thơ để thấy phần nào cái đẹp của ý thơ phải nói là tuyệt bút này. Nhưng có thể hiểu một triết lý của mỹ học Nguyễn Trãi: Cái đẹp là sự khởi đầu… Đặc sắc hơn là nói bằng hình tượng thơ.

Mùa xuân đồng nghĩa với hạnh phúc. Mỹ học về mùa xuân Nguyễn Trãi đồng nghĩa với mỹ học về hạnh phúc, đúng hơn, triết gia đưa ra một “định nghĩa” về hạnh phúc: “Chụm tự nhiêu lều một gian/ Giũ không thay thảy tấm hồng trần/ Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ/ Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân/ Thấy nguyệt tròn thì kể tháng/ Nhìn hoa nở mới hay xuân/ Cày ăn đào uống yên đòi phận/ Sự thế chăng hay đã Hán Tần” (“Tự thán 32”).

Hạnh phúc là tự mình lao động trong cảnh hòa bình yên ổn; sống giữa thiên nhiên với căn lều nhỏ, xa với cuộc sống phàm tục; có vườn cam quýt (thay vì là “con đòi” đứng hầu là những hàng cam quýt), có bè bạn là ngư dân hay tiều phu chân chất; sống không quan tâm đến thời gian, lấy cái đẹp tự nhiên làm thước đo thời gian. Điều này lý giải “Quốc âm thi tập” có rất nhiều chữ “nhàn” nghiêng về nghĩa nhàn tâm, không bon chen danh lợi, không vướng tục lụy. Đó là hạnh phúc!

Tiên sinh ưa sự cô đơn, vắng vẻ, thích sống nơi núi rừng sông suối, làm bạn với ngư tiều hơn là chốn phồn hoa đô hội nặng công danh phù phiếm. Ông coi sự “vắng” là một yếu tố trong quy luật sáng tạo nghệ thuật: “Trượng phu non vắng là tri kỷ/ Tiên khách nguồn om ấy cố nhân/ Mấy của yêu đương đà chiếm được/ Lại mong chiếm cả hết hòa xuân” (“Tự thán 11”). “Nguồn om” tức “nguồn im”. Phải nơi “non vắng”, “nguồn om” ấy mới có thể sáng tạo, hơn nữa mới đẩy sự khát khao, ham mê sáng tạo ở mức cao nhất.

Thi nhân cũng rất coi trọng cảm hứng: “Liễu mềm rủ, nhặt đưa hương/ Hứng bợn lầu thơ khách ngại rằng/ Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít/ Một phen tiếc cảnh một phen thương” (“Thơ tiếc cảnh 8”). Có thể hiểu mỗi khi liễu rủ mềm theo gió đưa hương người thơ càng thêm mềm lòng bâng khuâng “tiếc cảnh”. Cảm hứng tiếc xuân nên chẳng muốn nói năng (khách ngại rằng).

Vì muốn chiêm bái, tận hưởng cái đẹp mà có ý trách tạo hóa: “Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân/ Mới trách thanh đồng tin diễn đến/ Bởi chưng hệ chúa Đông quân” (“Thơ tiếc cảnh”). Trách “thanh đồng” tức tiên đồng đem tin đến chậm (diễn nghĩa là xa xôi) làm cho thi nhân mãi mới gặp xuân. Cũng là tại bởi Đông quân (Chúa xuân) cứ muốn giữ xuân lại không cho tiên đồng báo tin sớm. Lời thơ đẹp huyền ảo. Không gian như trở về huyền thoại. Thì ra cái đẹp đích thực ai cũng thích, từ Chúa xuân đến thi nhân cũng đều muốn thưởng thức!

Cảnh xuân bình dị dân dã nhưng tràn đầy sức trẻ, sức sống: “Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ mùi thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem” (“Cây chuối”). Trong khi thơ đương thời tràn ngập biểu tượng thanh cao quân tử với “tùng, cúc, trúc, mai” thì một cây chuối chân quê “tốt lại thêm” và tỏa thơm “mùi lạ”!? Theo con đường liên văn hóa truy ngược về đầu nguồn thì cây chuối mới chính là biểu tượng cho kẻ sĩ: ở đâu cũng sống dẻo dai; không chịu gục ngã trước gió bão; cái nõn trắng tinh (tấm lòng quân tử) dù có bị chém ngang, một lúc lại trồi ra thách thức!

Thơ Ức Trai đầy dự cảm, xen vào một chút âu lo. Mùa xuân đang tràn đầy hương sắc bỗng chen một thoáng thảng thốt: “Hoa thường héo, cỏ thường tươi”. Âu đấy cũng là số phận một thiên tài!

NGUYỄN THANH TÚ/VANVN.VN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm