TIN TỨC

Nguyễn Văn Hầu - Nhà giáo mắc nợ văn chương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-03 11:02:35
mail facebook google pos stwis
3771 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Người phương Tây nói: “Tất cả mất đi, chỉ còn lại văn hóa” (Tout s’oublie, seule la culture reste). Văn học trong lĩnh vực văn hóa cũng chiếm vị trí quan trọng song hành với sứ mệnh giáo dục. Nguyễn Văn Hầu dù xuất thân là nhà giáo, ngoài dạy học, ông vẫn ông không rời cây bút. Trên văn đàn Nam bộ ba thập niên từ năm 1945, vừa viết báo, suốt đời ông đã viết trên 20 tác phẩm sáng giá: + Tạp bút (3): Tiếng quyên (thơ, 1952), Chính quân yếu lược (chính luận, 1855), Bản ngã người Việt (khảo luận, 1960); + Văn sử (9) tiêu biểu là: Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (lịch sử ký sự, 1959), Thuật viết văn (khảo luận, 1960), Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu (biên khảo, 1961), Nửa tháng trong miền Thất Sơn (du ký, 1970, tái bản- 1999), Thoại Ngọc Hầu và cuộc khai phá miền Hậu Giang (biên khảo- 1972, Trẻ- 1999), Văn chương miền Nam (bản thảo)…; + Tôn giáo (8):Thất Sơn mầu nhiệm (biên khảo, 1955), Muốn về cõi Phật (tiểu luận, 1969), Nhận thức Phật giáo Hòa hảo (biên khảo, 1969), Tu rèn tâm trí (nt, 1970)… Nguyễn Văn Hầu mất năm 1995 tại quê nhà ở Cù Lao Giêng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Nam bộ là miền đất mới được hình thành từ hơn ba trăm nay trong cuộc Nam tiến lịch sử của chúa Nguyễn. Hiện nay trong văn học, thực tế không có nhiều tác giả viết về những người đã dày công khẩn hoang lập ấp nơi miền biên thùy cuối cùng nước Việt. Bên cạnh nhà văn Sơn Nam (1926-2008), Vương Hồng Sển (1902-1996), Bình Nguyên Lộc (1914-1987), Nguyễn Bá Thế (1925-1996),… Nguyễn Văn Hầu được coi là một trong những nhà văn hàng đầu có nhiều công trình biên khảo rất công phu về lịch sử, đất nước và con người miệt vườn Tây Nam bộ.


Nhà giáo, nhà văn Nguyễn Văn Hầu.

Nguyễn Văn Hầu (1922-1995) sinh ra tại xã Bình Phước Xuân, trên cù lao Giêng, thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Tiếp thu truyền thống Nho học với giáo dục nền nếp của gia đình, sau khi học chữ Quốc ngữ tại quê nhà, lớn lên ông tiếp tục học thêm tiếng Pháp và chữ Hán. Năm 30 tuổi (1952), vẫn ở tại quê nhà Chợ Mới, Nguyễn Văn Hầu bắt đầu đi dạy học, vừa viết báo và soạn sách. Là một nhà văn có bút lực mạnh mẽ, ông viết nhiều cho những tạp chí đứng đắn lúc bấy giờ ở Sài Gòn như Bách Khoa, Văn Đàn, Văn hóa Nguyệt san, Phổ thông, Sử Địa, Phương Đông, Phật giáo Việt Nam. Đồng thời, Nguyễn Văn Hầu cũng là người đứng ra chủ trương nguyệt san Đuốc Từ Bi. Vì xuất thân là nhà giáo, tha thiết với sự nghiệp trồng người, Nguyễn Văn Hầu cộng tác (1960-1968) với những giáo sư tác giả như Bàng Bá Lân (1912-1988), Đỗ Văn Tú,… để viết sách giáo khoa môn Giảng văn bậc Trung học. Với sự nghiệp và uy tín đã có, ông được mời giảng dạy (1971) môn Văn học tại Phân khoa Văn khoa và Sư phạm tại Viện Đại học Hòa Hảo An Giang. Từ năm 1977, Nguyễn Văn Hầu bắt đầu kém dần sức khỏe nhưng ông vẫn cố gắng hoàn thành xong hai bộ bản thảo sách văn học: Ba trăm năm văn học dân gian Lục tỉnh và Văn học miền Nam Lục tỉnh.

Nhìn lại sự nghiệp văn chương của nhà văn Nguyễn Văn Hầu với trên 20 tác phẩm đủ thể loại: thơ, du ký, biên khảo… viết tập trung theo một chuyên đề đặc biệt, ta nhận thấy nổi bật lên những nội dung chính sau đây có thể giúp cho thế hệ về sau hiểu biết.

Với những bàn tay khai phá của con người cần cù, dũng cảm trong lao động để mang lại những tiện nghi trong sinh hoạt và hạnh phúc cho nhân dân nơi miền đất mới còn hoang sơ theo hoài bão trong đời của tác giả (Nguyễn Hiến Lê).

Với lòng yêu đất nước của con người Việt Nam nơi miền đất mới được khẩn hoang, tác giả viết sách là để nhấn mạnh phẩm chất cao đẹp của những con người tiên phong đã dày công khai phá trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt: Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Việt sử kinh nghiệm. Đó là đức hy sinh trong lao động cùng với tinh thần dân tộc của những nhà cách mạng có liên quan đến phong trào Đông Du ở miền Nam trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cùng thời với Nguyễn Thần Hiến (1857-1914), Trần Chánh Chiếu (1868-1919), Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu… Cuộc đời oanh liệt của Quản cơ Trần Văn Thành kháng Miên, đánh Pháp đã lập chiến khu tại rừng Bảy Thưa và đồng Láng Linh (1868-1873) cùng thời với Nguyễn Trung Trực () và Thiên Hộ Dương () (Cuộc khởi nghĩa của Bảy Thưa, Cố Quản) hay một quái kiệt mà người đương thời thường gọi là hắc hổ đã bình định Chiêm và thống lĩnh Chân Lạp, với nhiều sắc phong nhất từ vua chúa: Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hiến Lê xuất bản)…

Là nhà văn quê quán ở gần miền biên thùy rừng núi Tây Nam bộ, mảnh đất màu mỡ của văn hóa tâm linh phía Nam tổ quốc, nhà văn Nguyễn Văn Hầu nhận rõ được vị trí, hình thể cùng sự khai sinh ra dãy Thất Sơn. Giai thoại về những sơn nhân, dị nhân, giáo chủ cùng những sinh hoạt kỳ bí của rừng núi phương Nam và hoạt động của các nhà cách mạng được tác giả mô tả lại: Thất Sơn mầu nhiệm, Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Việt Nam Tam giáo sử cương,… Để từ đó, nơi từng xuất phát ra tôn giáo, nhà văn có cơ sở hướng con người đến con đường chính đạo hầu rèn luyện tu dưỡng song hành về trí tâm và trí đạo: Muốn về cõi Phật, Rèn luyện tâm trí, Pháp luận.

Với sở trường của một ngòi bút bẩm sinh đam mê về văn học và có trải nghiệm trong nghề viết văn, Nguyễn Văn Hầu muốn đem tâm huyết ra chỉ rõ những hạn chế của người cầm bút. Từ đó nhà văn hướng dẫn họ cách viết văn. Nói có sách mách có chứng, để cụ thể hóa, nhà văn không ngại mất công đã trưng ra hằng trăm đoạn văn của cả trăm người cầm bút để làm cơ sở rút tỉa kinh nghiệm: Thuật viết văn (NXB :Tự Do- 1970, Hương Sen- 1972 và Trẻ-2005). Về sách tương tự với loại này, ta cũng biết đã có nhiều giáo sư, học giả viết: Nguyễn Hiến Lê (1912-1984): Luyện văn (I, II, III); Nguyễn Duy Cần (1907-1998): Để trở thành nhà văn; Phạm Việt Tuyền (1926-2009): Nghệ thuật viết văn…

Trong tác phẩm du ký Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Nguyễn Văn Hầu cũng ghi lại một cuộc du khảo trong một khu vực mà người trước (Phật Thầy Tây An – …) đã coi là linh địa và người sau đó (P. Gourou – …) đã cho rằng địa thế độc đáo. Tác giả đã trình bày rất công phu trong sách nhiều tài liệu quý và hình ảnh khó chụp.

Riêng cuốn biên khảo Nguyễn Văn Hầu viết rất công phu (lúc sinh tiền nhưng chưa kịp in) về Văn học miền Nam trong đó gồm có văn học dân gian (còn gọi là văn chương bình dân hay văn chương truyền miệng) như ca dao, tục ngữ, truyện cổ, câu đố, hò vè, nói thơ và các điệu dân ca khác… Đọc tác phẩm này, ta thấy tác giả nhắc lại và kiểm nghiệm lịch sử của một vùng đất với nền văn hóa cộng đồng trong đó nổi bật tính cách lịch sử của con người Việt Nam nơi miền đất mới.

Ngoài ra, cũng như hầu hết các nhà văn trong buổi bình minh cầm bút, tác phẩm đầu tiên của nhà văn Nguyễn Văn Hầu là một tập thơ có nhan đề “Tiếng quyên”. Chỉ cái tựa của thi tập cũng đã nói lên nỗi lòng của hồn thơ ưu tư đêm ngày với bao nỗi ray rức băn khoăn trong hoàn cảnh quốc phá gia vong đang đi tìm con đường sống cho dân tộc: Trí thần nhớ đến tiếng quyên / Gọi hồn cố quốc sầu riêng một mình. Tập “Bản ngã người Việt” (ký Lạc Tử và Bút trạch- bút danh khác của Nguyễn Văn Hầu), là tư duy về những đức tính cùng nhân sinh quan mới và cũ kèm theo sau đó là hướng phấn đấu. Cuốn sách cho thấy tâm huyết của nhà văn là muốn truyền cảm hứng tích cực để con người tu dưỡng, rèn luyện tốt bản thân hầu đóng góp cho dân tộc xã hội cường thịnh.

Trước năm 1954, ngoài các tác giả đã viết trước đây như: Mạc Thiên Tích (1700- 1780), Đông Hồ (1906-1969), Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), Thuần Phong Ngô Văn Phát, tức nhà thơ Tố Phang (1910-1983), Hồ Hữu Tường (1910-1980)… công chúng văn học có thể coi nhà văn Nguyễn Văn Hầu là một khuôn mặt văn học chân chính có nhiều đóng góp tích cực về sự hình thành lịch sử và giá trị của văn học miền Nam. Nhận định về nhà văn Nguyễn Văn Hầu, GS. Nhà văn Nguyễn Q. Thắng nêu ý kiến xác đáng: “Nguyễn Văn Hầu là một học giả am tường về các nhân vật vùng thực địa thuộc miền Tây Nam bộ… Có thể nói ông là người đầu tiên giới thiệu các nhân vật góp công vào việc khai hoang, lập làng mở cõi cùng công cuộc trấn giữ biên cương ở phía Tây Nam tổ quốc từ thế kỷ XVIII”. Tục ngữ La Tin có câu: “Lời nói bay đi, chữ viết còn lại” (Verba volant, scripta manent), nhà giáo – nhà văn Nguyễn Văn Hầu có thể coi là chân dung đích thực của một nhà giáo nặng nợ với văn chương. Ngày nay, thân thế và sự nghiệp của ông đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam và lòng công chúng bằng những tác phẩm mang phong cách nghệ thuật dân tộc và có giá trị nhân văn mang hơi nóng trái tim và ấm nồng tình yêu đất mẹ của mình.

Nguyễn Thanh

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm