TIN TỨC

Nhà thơ Lê Thị Kim thắp cho mình ngọn lửa…

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-18 22:44:07
mail facebook google pos stwis
2664 lượt xem

Chung Tử

 Nói đến cái tên Lê Thị Kim, có người nhắc đến chuyện kinh doanh địa ốc, hay ai đó lại nhấn mạnh rằng chị làm thơ hay lắm. Rồi lại có người khen hội họa mới là tài năng thật sự của chị. Và có anh chàng nọ khen giọng hát hay ngâm thơ của Lê Thị Kim thật ngọt và như ru người ta vào giấc mộng vậy. Ôi, thật lãng mạn! Nhưng bất ngờ lại có một tin trên báo nọ rằng, thời học ở Đại học Khoa học Sài Gòn cũ, cô sinh viên Lê Thị Kim còn là vận động viên bóng bàn xuất sắc, vô địch toàn trường 4 năm liền. Nếu vậy, ắt Lê thị Kim còn là một nhà khoa học gì đó nữa chứ. Thì đúng thế! Quả đó là một khối rubic đa sắc, biến hóa đến kỳ ảo…


 

Nhà thơ Lê Thị Kim.

Duyên thơ và nhạc

Khi gặp Lê Thị Kim mới đây, ởtuổi 62, tôi mới hay chị còn là một phụ nữ đẹp và rất có duyên. Nét duyên ấyđánh át tất cả những hình dung mà mọi người đã thông báo cho tôi. Lúc này tôi chỉ còn nhớ thuở nào, có anh chàng say ngắm nhìn chị, với tình cảm kỳ lạ qua ánh mắt hết sức ám ảnh, đến nỗi đêm về chị phải làm một bài thơ để thầm đền đáp cho chàng trai chẳng bao giờ có thể gặp lại. Đó là bài thơ Đừng nhìn em nhưthế. Nó đã trở thành mốc son cho con đường thơ ca của Lê Thị Kim sau này. Đặc biệt là sau đó, bài thơ ngay lập tức được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành bài hát nổi tiếng qua giọng hát của ca sĩ Thu Hiền. Và thật không ngờ, bài thơ này cònđược thêm 4 nhạc sĩ khác cùng phổ, mỗi người một phong cách khác nhau. Bài thơ đã trở thành hiện tượng của những năm đầu thập niên 80. Dường như nhiều bạn trẻthuở đó đều nhớ đến khổ thơ mở đầu ca khúc: “Đừng nhìn em như thế/Cháy lòng em còn gì/Sự nồng nàn của bể/Cuốn mất hồn em đi…”. Điểm nhấn của bài thơ là đôi mắt, đó là nơi dễ khiến người ta xiêu lòng nhất.

Lại có chuyện, chợt nhớ chịkể, có lần khi đến nhà nhạc sĩ Hoàng Hiệp để đưa bài thơ Hư ảo tình ta, nhờ ông phổ nhạc. Nhưng khi ra về, bất ngờ gặp nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Ông hỏi nhà thơtrẻ Lê Thị Kim có bài thơ nào mới để phổ nhạc không. Ai dè, Lê Thị Kim nói có và ngồi ngay tại chỗ làm một bài thơ với ý tứ vừa lóe sáng trong đầu. Vừa nghĩvừa chép ra, như trời xui đất khiến vậy. Đúng hai mươi phút sau, Lê Thị Kim hoàn thành bài thơ Vu vơ. Và cũng thật như có cơ duyên hẹn trước, ngay lúc đó, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu cầm bài thơ còn nóng con chữ, rồi hát luôn một giai điệu vui và tình tứ mang phong vị trẻ trung như một bông hoa phô bày chùm âm thanhđẹp hòa sắc với thiên nhiên. Có thể nói ít có những sự giao cảm lạ lùng giữa thơ và nhạc nhanh như hai dòng điện vậy. Sau này, ca khúc Vu vơ được nhiều ca sĩ trẻ biểu diễn trong một thời gian dài. Mở đầu cho một vệt nhạc và thơ Lê ThịKim được nhiều ca sĩ chọn lựa trong các đêm diễn. Cái tên Lê Thị Kim càng được khẳng định trong giới yêu thơ của TP. Hồ Chí Minh từ đó.

Duyên thơ của Lê Thị Kim ngày càng được nhiều nhạc sĩ phổ thành bài hát. Trong số đó có nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Hoàng Hiệp, Trương Tuyết Mai, Phạm Trọng Cầu, Vũ Hoàng, Quỳnh Hợp, Quốc Bảo, Hoàng Cương, Giao Tiên…Có thể nói Lê Thị Kim là người được nhạc sĩphổ thơ nhiều nhất hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh nếu không nói chị đã đánh dấu kỷlục gần một trăm bài thơ được phổ nhạc. Đã có lần chị chọn lọc 20 nhạc phẩm phổthơ của mình để cho các ca sĩ chuyên nghiệp hát trong buổi trình diễn thơ và nhạc Lê Thị Kim tại TP. Hồ Chí Minh. Chị có quan niệm về sáng tác thơ rất độc đáo:“Làm thơ là đi ngược chiều gió, là leo lên đỉnh tuyết. Không biết điều bất ngờnào đang ở phía trước”.

Tôi lại hình dung quan niệmấy của chị về thơ ca chính là câu chuyện của cuộc đời rất truân chuyên của chịkhi phải đi ngược chiều gió phong ba, bão táp của cuộc đời. Bởi cậu con trai của chị phải vất vả từng bước đi trên tay nạng, khi lâm bệnh; cùng với đó là sự đột ngột ra đi của người chồng yêu dấu – người mà chị nương tựa trong lúc cơhàn nhất và cũng là người tạo nên những nguồn cảm hứng thơ ca trong hàng chục năm chung sống. Thơ cũng như cuộc đời của Lê Thị Kim đều phải leo lên đỉnh núi tuyết để tìm đến ánh sáng mặt trời ấm áp.

Có thể chính vì thế mà thơcủa Lê Thị Kim có những điều mới lạ đối với bạn đọc. Sự dịu dàng cùng với độmẫn cảm đến bất ngờ. Những nhạc điệu bỗng vang lên trong từng câu thơ nồng nàn, thể hiện tình yêu với cuộc sống. Phải chăng vì thế cái duyên âm nhạc đến với thơ của Lê Thị Kim có sẵn trong từng câu thơ đầy sức quyến rũ của chị. Và chịcũng đã từng được chọn là một trong hai nhà thơ được các bạn trẻ yêu thích nhất năm 1990 do báo Tuổi Trẻ tổ chức cũng vì lẽ đó. Đồng thời, chị đoạt danh hiệu“Người phụ nữ tài năng” của TP. Hồ Chí Minh năm 1990. Và cũng chính thời điểm này chị còn là nhà thơ nữ đầu tiên của TP. Hồ Chí Minh, sau ngày Sài Gòn giải phóng, được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Hạnh phúc như sờ thấy được!

Đó là sự ngộ ra rất ẩn ý của Lê Thị Kim khi cầm cây cọ. Chị vẽ như lên đồng trong suốt một năm với tất cả sự đam mê, bất chấp mọi thứ lý luận có ở trên đời. Thật kỳ lạ, cái mầm của đường nét, màu sắc tự ùa đến, chị vẽ và vẽ không hề biết mình theo một trường phái nào và khởi động một cách thật sự bản năng, tự nhiên theo một đường dẫn vô thường của tâm linh mách bảo. Liên miên, đó là những đêm thức trắng với hình tượng trong tranh và những màu tím trong suốt. Ngờ đâu, tranh của Kim, như một số họa sĩ nhận xét, đằm thắm và tinh tế. Rồi ít người tưởng tượng nổi, vì ngay sau đó, kẻ “bôi sĩ” này dám mở một cuộc triển lãm cá nhân năm 1993 với một sự tự tinđến kỳ lạ. Lại càng khó hình dung hơn nữa khi Lê Thị Kim bày 38 bức tranh sơn dầu nhưng đã “bị” nhiều khách niêm phong ký tên mua liền 22 tác phẩm. Một thành công hiếm thấy ở một họa sĩ nữ lần đầu tiên bày tranh. Và thế là người ta làmđơn sẵn để đưa nhà thơ Lê Thị Kim ký tên xin vào Hội Mỹ thuật TP, nhưng chịkhông dám ký, vì nghĩ rằng mình chỉ liều chơi với màu sắc vậy thôi.

Hình tượng cô gái áo tím ngày nào khi học ở trường Gia Long, luôn luôn ám ảnh tạo nên một cảm quan sâu sắc trong thơ và tranh của Lê Thị Kim. Sau đó là những triển lãm riêng lần thứ hai và ba ở TP. Hồ Chí Minh (1995) và ở Mỹ (năm 2002), tranh của chị vẫn lấy chủ đạo màu tím trong hình tượng hay trong cảm xúc, ẩn giấu những nỗi niềm buồn vui, đau khổ, thất vọng cũng như sự khao khát cháy bỏng vượt qua những đổ vỡ,mất mát trong cuộc sống. Lê Thị Kim đã dựng nghiệp từ những thành công của màu sắc. Lần này, họ lại làm đơn và ký sẵn, thúc chị ký tên để vào Hội Mỹ thuật TP.Đây là một hiện tượng rất lạ trong giới Mỹ thuật TP khi chị hai lần được mời vào Hội một cách “sát sạt” đến vậy.

Nhà thơ Lê Thị Kim coi việc cầm cọ như một sự giải thoát. Tính đến nay, chị đã bán được tới 200 bức tranh; một kết quả rất khả quan đối với một người tay ngang ở tuổi 43. Sau này, khi bước sang lãnh địa kinh doanh địa ốc, chị đã có những day dứt khôn cùng vì chuyện mưu sinh và cứu rỗi những gì mất mát trong cuộc đời. Ấy thế rồi, đời người có được mấy cái mười năm. Mười năm làm thơ. Thành công! Mười năm vẽtranh. Thành công! Và mười năm kinh doanh. Cũng thành công! Nhưng giờ đây, mọi chuyện đã đóng băng với đất cát. Chị rối bời trước sự lựa chọn, như ngày nào chị đã viết những câu thơ chân thực trong bài Chông chênh. Nhưng rồi thơ lại thúc giục chị. Sắc màu lại lên tiếng kêu gọi khi chị vẫn ngày đêm vẽ và phụtrách CLB họa sĩ nữ Ngân Hà của TP. Hồ Chí Minh.

Mới đây nhất, trong triển lãm vào tháng 10/2012, chị đã trưng bày tác phẩm Đốm lửa hy vọng, vẫn với phong cách thực, ảo đan xen, bức tranh của chị thể hiện sức vượt lên những vấp ngã, khốn khó và bất hạnh. Ẩn sau hình tượng là những đốm lửa hy vọng và đó là điểm tựa cho ý chí tồn tại và tràn ngập niềm tin. Ngắm bức tranh mới của chị tôi chợt nhớ đến những câu thơ rất đời và cũng rất bay bổng của Lê Thị Kim. Bởi chịlàm thơ: “Để dấu trong hư ảo/Nửa vầng trăng không đầy/Để dấu trong hư ảo/Mảnh tình gày xót xa”. Còn chị vẽ: “Để trái tin hoang mạc/Thôi khóc cười bơ vơ/Thắp cho mình ngọn lửa/Thánh thiện và ước mơ”.

Hiện tại, chị vẫn phải tiếp tục “đi ngược chiều gió” với từng bước chân của người con trai hướng tới chân trời mới với nhiều hy vọng cùng những điều mới lạ còn ở phía trước. Bông hoa tím ngày nào vẫn ám ảnh trong thơ và tà áo tím vẫn dịu dàng tạo nên độ cong huyền ảo trong tranh Lê Thị Kim. Bởi vẻ đẹp của sự “thánh thiện và ước mơ” luôn luôn tràn ngập trong tâm hồn nữ sĩ.

C.T

* Đôi nét về nhà thơ Lê Thị Kim:

Tên khai sinh là Lê Thị Ngà, sinh ngày 31/3/1950, quê thị xã Cửa Tiền, tỉnh Thanh Hóa. Chị tốt nghiệp Khoa Hóa – Trường Đại học Khoa học Sài Gòn năm 1976, về làm việc tại Phân viện Khoa học Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh. Từ năm 2001, chị chuyển sang ngành Quản trị Kinh doanh địa ốc, làm Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn tiếp thị Công ty CP Đầu tư kinh doanh nhà.

Những năm 1979 đến 1982, chị là nhà thơ nữ duy nhất trong nhóm ca khúc của Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh và đã đi lưu diễn ở rất nhiều nơi, đặc biệt là ở các tỉnh miền Tây.

Năm 1981, Lê Thị Kim là hội viên sáng lập Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội khóa IV – V (2001 – 2010), Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn học, Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ; Ủy viên Hội đồng Thơ khóa VI (2010 – 2015), Uỷ viên Ban Chấp hành – Trưởng ban Nhà văn nữ, Trưởng ban Câu lạc bộ Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh khóa VII (2015 – 2020). Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990, Ủy viên Ban Nhà thơ nữ phụ trách phía Nam. Đồng thời, chị còn là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Họa sĩ nữ Ngân Hà thuộc Hội Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh từ 1998 tới nay.

Tác phẩm:

Thành phố tháng Tư – thơ (in chung với Nguyễn Nhật Ánh), NXB Hội Nhà văn 1986; Khi tình yêu đến – thơ, NXB Văn nghệ 1988; Đóa quỳ hư ảo – thơ, NXB Trẻ 1991 (tái bản 2 lần); Sương bụi tình yêu – thơ, NXB Văn nghệ 1997 (tái bản năm 2003, 2005); Em lạc đâu sao kim (2020)…

Giải thưởng:

  • Giải A thơ hay nhất năm 1978 của báo Văn Nghệ;
  • Danh hiệu Nhà thơ trẻ được yêu thích nhất TP. Hồ Chí Minh năm 1990, do bạn đọc báo Tuổi trẻ bình chọn;
  • Biểu dương 20 năm Văn học trẻ TP. Hồ Chí Minh (1975-1995);
  • Biểu dương 30 năm Văn học TP. Hồ Chí Minh (1975-2005).

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm