TIN TỨC

Nhà thơ Lê Thị Kim thắp cho mình ngọn lửa…

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-18 22:44:30
mail facebook google pos stwis
1465 lượt xem

Chung Tử

 Nói đến cái tên Lê Thị Kim, có người nhắc đến chuyện kinh doanh địa ốc, hay ai đó lại nhấn mạnh rằng chị làm thơ hay lắm. Rồi lại có người khen hội họa mới là tài năng thật sự của chị. Và có anh chàng nọ khen giọng hát hay ngâm thơ của Lê Thị Kim thật ngọt và như ru người ta vào giấc mộng vậy. Ôi, thật lãng mạn! Nhưng bất ngờ lại có một tin trên báo nọ rằng, thời học ở Đại học Khoa học Sài Gòn cũ, cô sinh viên Lê Thị Kim còn là vận động viên bóng bàn xuất sắc, vô địch toàn trường 4 năm liền. Nếu vậy, ắt Lê thị Kim còn là một nhà khoa học gì đó nữa chứ. Thì đúng thế! Quả đó là một khối rubic đa sắc, biến hóa đến kỳ ảo…


 

Nhà thơ Lê Thị Kim.

Duyên thơ và nhạc

Khi gặp Lê Thị Kim mới đây, ởtuổi 62, tôi mới hay chị còn là một phụ nữ đẹp và rất có duyên. Nét duyên ấyđánh át tất cả những hình dung mà mọi người đã thông báo cho tôi. Lúc này tôi chỉ còn nhớ thuở nào, có anh chàng say ngắm nhìn chị, với tình cảm kỳ lạ qua ánh mắt hết sức ám ảnh, đến nỗi đêm về chị phải làm một bài thơ để thầm đền đáp cho chàng trai chẳng bao giờ có thể gặp lại. Đó là bài thơ Đừng nhìn em nhưthế. Nó đã trở thành mốc son cho con đường thơ ca của Lê Thị Kim sau này. Đặc biệt là sau đó, bài thơ ngay lập tức được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành bài hát nổi tiếng qua giọng hát của ca sĩ Thu Hiền. Và thật không ngờ, bài thơ này cònđược thêm 4 nhạc sĩ khác cùng phổ, mỗi người một phong cách khác nhau. Bài thơ đã trở thành hiện tượng của những năm đầu thập niên 80. Dường như nhiều bạn trẻthuở đó đều nhớ đến khổ thơ mở đầu ca khúc: “Đừng nhìn em như thế/Cháy lòng em còn gì/Sự nồng nàn của bể/Cuốn mất hồn em đi…”. Điểm nhấn của bài thơ là đôi mắt, đó là nơi dễ khiến người ta xiêu lòng nhất.

Lại có chuyện, chợt nhớ chịkể, có lần khi đến nhà nhạc sĩ Hoàng Hiệp để đưa bài thơ Hư ảo tình ta, nhờ ông phổ nhạc. Nhưng khi ra về, bất ngờ gặp nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Ông hỏi nhà thơtrẻ Lê Thị Kim có bài thơ nào mới để phổ nhạc không. Ai dè, Lê Thị Kim nói có và ngồi ngay tại chỗ làm một bài thơ với ý tứ vừa lóe sáng trong đầu. Vừa nghĩvừa chép ra, như trời xui đất khiến vậy. Đúng hai mươi phút sau, Lê Thị Kim hoàn thành bài thơ Vu vơ. Và cũng thật như có cơ duyên hẹn trước, ngay lúc đó, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu cầm bài thơ còn nóng con chữ, rồi hát luôn một giai điệu vui và tình tứ mang phong vị trẻ trung như một bông hoa phô bày chùm âm thanhđẹp hòa sắc với thiên nhiên. Có thể nói ít có những sự giao cảm lạ lùng giữa thơ và nhạc nhanh như hai dòng điện vậy. Sau này, ca khúc Vu vơ được nhiều ca sĩ trẻ biểu diễn trong một thời gian dài. Mở đầu cho một vệt nhạc và thơ Lê ThịKim được nhiều ca sĩ chọn lựa trong các đêm diễn. Cái tên Lê Thị Kim càng được khẳng định trong giới yêu thơ của TP. Hồ Chí Minh từ đó.

Duyên thơ của Lê Thị Kim ngày càng được nhiều nhạc sĩ phổ thành bài hát. Trong số đó có nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Hoàng Hiệp, Trương Tuyết Mai, Phạm Trọng Cầu, Vũ Hoàng, Quỳnh Hợp, Quốc Bảo, Hoàng Cương, Giao Tiên…Có thể nói Lê Thị Kim là người được nhạc sĩphổ thơ nhiều nhất hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh nếu không nói chị đã đánh dấu kỷlục gần một trăm bài thơ được phổ nhạc. Đã có lần chị chọn lọc 20 nhạc phẩm phổthơ của mình để cho các ca sĩ chuyên nghiệp hát trong buổi trình diễn thơ và nhạc Lê Thị Kim tại TP. Hồ Chí Minh. Chị có quan niệm về sáng tác thơ rất độc đáo:“Làm thơ là đi ngược chiều gió, là leo lên đỉnh tuyết. Không biết điều bất ngờnào đang ở phía trước”.

Tôi lại hình dung quan niệmấy của chị về thơ ca chính là câu chuyện của cuộc đời rất truân chuyên của chịkhi phải đi ngược chiều gió phong ba, bão táp của cuộc đời. Bởi cậu con trai của chị phải vất vả từng bước đi trên tay nạng, khi lâm bệnh; cùng với đó là sự đột ngột ra đi của người chồng yêu dấu – người mà chị nương tựa trong lúc cơhàn nhất và cũng là người tạo nên những nguồn cảm hứng thơ ca trong hàng chục năm chung sống. Thơ cũng như cuộc đời của Lê Thị Kim đều phải leo lên đỉnh núi tuyết để tìm đến ánh sáng mặt trời ấm áp.

Có thể chính vì thế mà thơcủa Lê Thị Kim có những điều mới lạ đối với bạn đọc. Sự dịu dàng cùng với độmẫn cảm đến bất ngờ. Những nhạc điệu bỗng vang lên trong từng câu thơ nồng nàn, thể hiện tình yêu với cuộc sống. Phải chăng vì thế cái duyên âm nhạc đến với thơ của Lê Thị Kim có sẵn trong từng câu thơ đầy sức quyến rũ của chị. Và chịcũng đã từng được chọn là một trong hai nhà thơ được các bạn trẻ yêu thích nhất năm 1990 do báo Tuổi Trẻ tổ chức cũng vì lẽ đó. Đồng thời, chị đoạt danh hiệu“Người phụ nữ tài năng” của TP. Hồ Chí Minh năm 1990. Và cũng chính thời điểm này chị còn là nhà thơ nữ đầu tiên của TP. Hồ Chí Minh, sau ngày Sài Gòn giải phóng, được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Hạnh phúc như sờ thấy được!

Đó là sự ngộ ra rất ẩn ý của Lê Thị Kim khi cầm cây cọ. Chị vẽ như lên đồng trong suốt một năm với tất cả sự đam mê, bất chấp mọi thứ lý luận có ở trên đời. Thật kỳ lạ, cái mầm của đường nét, màu sắc tự ùa đến, chị vẽ và vẽ không hề biết mình theo một trường phái nào và khởi động một cách thật sự bản năng, tự nhiên theo một đường dẫn vô thường của tâm linh mách bảo. Liên miên, đó là những đêm thức trắng với hình tượng trong tranh và những màu tím trong suốt. Ngờ đâu, tranh của Kim, như một số họa sĩ nhận xét, đằm thắm và tinh tế. Rồi ít người tưởng tượng nổi, vì ngay sau đó, kẻ “bôi sĩ” này dám mở một cuộc triển lãm cá nhân năm 1993 với một sự tự tinđến kỳ lạ. Lại càng khó hình dung hơn nữa khi Lê Thị Kim bày 38 bức tranh sơn dầu nhưng đã “bị” nhiều khách niêm phong ký tên mua liền 22 tác phẩm. Một thành công hiếm thấy ở một họa sĩ nữ lần đầu tiên bày tranh. Và thế là người ta làmđơn sẵn để đưa nhà thơ Lê Thị Kim ký tên xin vào Hội Mỹ thuật TP, nhưng chịkhông dám ký, vì nghĩ rằng mình chỉ liều chơi với màu sắc vậy thôi.

Hình tượng cô gái áo tím ngày nào khi học ở trường Gia Long, luôn luôn ám ảnh tạo nên một cảm quan sâu sắc trong thơ và tranh của Lê Thị Kim. Sau đó là những triển lãm riêng lần thứ hai và ba ở TP. Hồ Chí Minh (1995) và ở Mỹ (năm 2002), tranh của chị vẫn lấy chủ đạo màu tím trong hình tượng hay trong cảm xúc, ẩn giấu những nỗi niềm buồn vui, đau khổ, thất vọng cũng như sự khao khát cháy bỏng vượt qua những đổ vỡ,mất mát trong cuộc sống. Lê Thị Kim đã dựng nghiệp từ những thành công của màu sắc. Lần này, họ lại làm đơn và ký sẵn, thúc chị ký tên để vào Hội Mỹ thuật TP.Đây là một hiện tượng rất lạ trong giới Mỹ thuật TP khi chị hai lần được mời vào Hội một cách “sát sạt” đến vậy.

Nhà thơ Lê Thị Kim coi việc cầm cọ như một sự giải thoát. Tính đến nay, chị đã bán được tới 200 bức tranh; một kết quả rất khả quan đối với một người tay ngang ở tuổi 43. Sau này, khi bước sang lãnh địa kinh doanh địa ốc, chị đã có những day dứt khôn cùng vì chuyện mưu sinh và cứu rỗi những gì mất mát trong cuộc đời. Ấy thế rồi, đời người có được mấy cái mười năm. Mười năm làm thơ. Thành công! Mười năm vẽtranh. Thành công! Và mười năm kinh doanh. Cũng thành công! Nhưng giờ đây, mọi chuyện đã đóng băng với đất cát. Chị rối bời trước sự lựa chọn, như ngày nào chị đã viết những câu thơ chân thực trong bài Chông chênh. Nhưng rồi thơ lại thúc giục chị. Sắc màu lại lên tiếng kêu gọi khi chị vẫn ngày đêm vẽ và phụtrách CLB họa sĩ nữ Ngân Hà của TP. Hồ Chí Minh.

Mới đây nhất, trong triển lãm vào tháng 10/2012, chị đã trưng bày tác phẩm Đốm lửa hy vọng, vẫn với phong cách thực, ảo đan xen, bức tranh của chị thể hiện sức vượt lên những vấp ngã, khốn khó và bất hạnh. Ẩn sau hình tượng là những đốm lửa hy vọng và đó là điểm tựa cho ý chí tồn tại và tràn ngập niềm tin. Ngắm bức tranh mới của chị tôi chợt nhớ đến những câu thơ rất đời và cũng rất bay bổng của Lê Thị Kim. Bởi chịlàm thơ: “Để dấu trong hư ảo/Nửa vầng trăng không đầy/Để dấu trong hư ảo/Mảnh tình gày xót xa”. Còn chị vẽ: “Để trái tin hoang mạc/Thôi khóc cười bơ vơ/Thắp cho mình ngọn lửa/Thánh thiện và ước mơ”.

Hiện tại, chị vẫn phải tiếp tục “đi ngược chiều gió” với từng bước chân của người con trai hướng tới chân trời mới với nhiều hy vọng cùng những điều mới lạ còn ở phía trước. Bông hoa tím ngày nào vẫn ám ảnh trong thơ và tà áo tím vẫn dịu dàng tạo nên độ cong huyền ảo trong tranh Lê Thị Kim. Bởi vẻ đẹp của sự “thánh thiện và ước mơ” luôn luôn tràn ngập trong tâm hồn nữ sĩ.

C.T

* Đôi nét về nhà thơ Lê Thị Kim:

Tên khai sinh là Lê Thị Ngà, sinh ngày 31/3/1950, quê thị xã Cửa Tiền, tỉnh Thanh Hóa. Chị tốt nghiệp Khoa Hóa – Trường Đại học Khoa học Sài Gòn năm 1976, về làm việc tại Phân viện Khoa học Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh. Từ năm 2001, chị chuyển sang ngành Quản trị Kinh doanh địa ốc, làm Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn tiếp thị Công ty CP Đầu tư kinh doanh nhà.

Những năm 1979 đến 1982, chị là nhà thơ nữ duy nhất trong nhóm ca khúc của Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh và đã đi lưu diễn ở rất nhiều nơi, đặc biệt là ở các tỉnh miền Tây.

Năm 1981, Lê Thị Kim là hội viên sáng lập Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội khóa IV – V (2001 – 2010), Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn học, Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ; Ủy viên Hội đồng Thơ khóa VI (2010 – 2015), Uỷ viên Ban Chấp hành – Trưởng ban Nhà văn nữ, Trưởng ban Câu lạc bộ Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh khóa VII (2015 – 2020). Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990, Ủy viên Ban Nhà thơ nữ phụ trách phía Nam. Đồng thời, chị còn là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Họa sĩ nữ Ngân Hà thuộc Hội Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh từ 1998 tới nay.

Tác phẩm:

Thành phố tháng Tư – thơ (in chung với Nguyễn Nhật Ánh), NXB Hội Nhà văn 1986; Khi tình yêu đến – thơ, NXB Văn nghệ 1988; Đóa quỳ hư ảo – thơ, NXB Trẻ 1991 (tái bản 2 lần); Sương bụi tình yêu – thơ, NXB Văn nghệ 1997 (tái bản năm 2003, 2005); Em lạc đâu sao kim (2020)…

Giải thưởng:

  • Giải A thơ hay nhất năm 1978 của báo Văn Nghệ;
  • Danh hiệu Nhà thơ trẻ được yêu thích nhất TP. Hồ Chí Minh năm 1990, do bạn đọc báo Tuổi trẻ bình chọn;
  • Biểu dương 20 năm Văn học trẻ TP. Hồ Chí Minh (1975-1995);
  • Biểu dương 30 năm Văn học TP. Hồ Chí Minh (1975-2005).

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm