TIN TỨC

Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh với Dấu thời gian

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-20 21:00:27
mail facebook google pos stwis
496 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Là nhà báo nên Nguyễn Văn Mạnh có cơ hội đến với nhiều vùng, miền của đất nước. Với ông, cuộc sống luôn vỗ vào trái tim mà bật lên thành thơ. Nhiều khi đó là sự mách bảo, nhà thơ không chủ ý.

Dấu thời gian là tập thơ thứ hai của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh. Ông hiện là Trưởng ban biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, kiêm Trưởng Văn phòng đại diện Thời báo VHNT tại Hải Phòng.

Tên tập thơ cho thấy đó đó là tập thơ của những hồi ức, trong đó có quê hương - thành phố Hải Phòng, thành phố "cửa biển" và những hồi ức về tuổi thơ, bạn bè.... Hay nói cách khác Dấu thời gian là vùng ký ức của tác giả. Tập thơ gồm 54 bài, được tác giả bố cục thành các phần: Phần I có tên “Tiếng quê hương” gồm 16 bài; Phần II có tên “Hành trình ký ức” gồm 19 bài; Phần III có tên “Ngẫm với dòng đời” gồm 18 bài.

Tiếng quê hương”, (phần I) đúng như dụng công sắp xếp của tác giả, là những cung bậc cảm xúc về cố thổ, những hoài niệm đẹp – kể cả dang dở của một mối tình. Thường, con người ta khi đã ở một độ tuổi nhất định thì ký ức càng sống dậy, ngọ nguậy trong tâm hồn.

Bây giờ trút hết bụi đường / Về quê nhung nhớ yêu thương tìm về / Đón mây rụng xuống sông quê / Thuyền trăng neo giữa bốn bề mênh mông...”, đấy là quy luật tâm lý khi nhận ra “Lợi danh thành khói hư không” như trong bài thơ Về quê của tác giả.

Trải qua bến bể nương dâu
Lòng nghe tiếng bạn trên đầu sương phơi
Lại về bên dậu mồng tơi
Tiếng lòng xếp chặt một cơi với trầu

(Bạn quê)

Không chỉ Về quê, cảm thức Nguyễn Văn Mạnh miên man trong Đêm Cát Bà, Mái trường, Trở lại tuổi hai mươi, Bạn quê, Một thoáng Thủy Nguyên, Thuở học trò, Ao làng mùa hạn, Thành phố bên bờ sóng...

Thơ về thời quá vãng, hồi ức về “thời cánh phượng hồng ngẩn ngơ” của Nguyễn Văn Mạnh trong sáng, hồn hậu, chân thành, dẫu bồi lở nhưng hào sảng, kiêu hãnh. Đó chính là “Tiếng quê hương”.

Đảo xa nổi chìm trong sóng / Đèn câu nhấp nháy sao sa / Rực rỡ biển đêm thăm thẳm / Hải đăng Tổ quốc: Cát Bà!”. Đây là khổ cuối trong bài thơ Cát Bà của ông. Chỉ chừng ấy câu thơ thôi, nhưng Hải Phòng hiện lên với tư cách một thành phố cảng, từ trong lịch sử biết bao thế hệ người dân quê ông đã biết vượt sóng ra khơi vì cuộc sống, vì những giá trị thiêng liêng của biển đảo, chủ quyền biển đảo đất nước.

Nơi ta cất tiếng chào đời ở đó
Mái phố rung lên bao cuộc thăng trầm
Nơi ta biết tự mình ra mở cửa
Trơì đất ùa về muôn tiếng tri âm

(Thành phố bên bờ sóng)

Thơ Nguyễn Văn Mạnh, về thi pháp cũng có nhiều loại, có lục bát, có bài thể 5 chữ kết hợp 6 chữ và tự do, điều đấy nói lên rằng Nguyễn Văn Mạnh hoàn toàn phóng túng với cảm xúc. Hay nói cách khác, cảm thức thơ với quê hương trước hết là sự chân thành. Nhờ vậy, Nguyễn Văn Mạnh có nhiều câu thơ hay, nhiều thi ảnh vụt hiện có giá trị mới. ”Cát Bà cô đơn đầu sóng / Tưởng như quên lãng giữa đời / Tụ lửa của lòng dân biển / Thắp lên ngọn đuốc ven trời”, (Đêm Cát Bà). “Ngọn đuốc ven trời” là thi ảnh đẹp, giàu chất thơ.

Là nhà báo nên Nguyễn Văn Mạnh có cơ hội đến với nhiều vùng, miền của đất nước. Và đó là những bài thơ ở phần II, có tên “Hành trình ký ức”. Với nhà thơ luôn vậy, cuộc sống luôn vỗ vào trái tim mà bật lên thành thơ. Nhiều khi đó là sự mách bảo, nhà thơ không chủ ý.

Hoàng hôn nhuộm Kỳ Cùng đến tím
Tóc gió thả hương thắt buộc đến xao lòng
Người ngọc liếc ánh nhìn bịn rịn
Nửa nụ cười, men rượu cũng bằng không.

(Hành trình Xứ Lạng)

Đất mới là nơi ta đến tìm nhau
Làn điệu dân ca nối liền khoảng cách
Hương cà phê gọi đàn ong tìm đến
Tiếng hát em gọi đất hóa nông trường

(Dân ca vùng đất mới)

Từ trái: nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh, nhà văn nhà báo Hoàng Dự , nhà thơ Đoàn Mạnh Phương và nhà thơ Ngô Đức Hành tại Lễ ra mắt Văn phòng đại diện Thời báo VHNT tại Hải Phòng

Trong Dấu thời gian, có mảng thơ về đề tài tình yêu, nhưng bao trùm tất cả đó là tình yêu quê hương, đất nước. Đặc biệt, với trách nhiệm xã hội của thi ca, chùm thơ về đề tài biên giới, hải đảo của ông khá ấn tượng. Có thể kể ra một số bài thơ về đề tài này như: AND của biển, Tiếng biển xanh, Chiều Chi Lăng em hát, Pha Đin, Chiều Ải Bắc tìm em, Bên mộ gió Cô Lin, Bên cột mốc 92...

Chiều nay bên đảo Cô Lin
Đứt từng khúc ruột lặng nhìn Gạc Ma
Một thời bão lửa mưa sa
Nỗi hờn nợ nước thù nhà còn đây

Các anh đã hóa thành mây
Tan vào biển nước vơi đầy nhớ thương
Hóa thành cột mốc biên cương
Cắm trên đầu sóng kiên cường ngàn năm

(Bên mộ gió Cô Lin)

Nếu ai từng có cơ hội đến với quần đảo Trường Sa, sẽ thấy đây là bài thơ xúc động, ám ảnh. Đảo Cô Lin cách Gạc Ma không xa, đứng ở đảo đá Cô Lin nhìn rõ những công trình của Trung Quốc xây dựng trên đảo Gạc Ma mà họ đang chiếm giữ trái phép.

35 năm trước, vào ngày 14/3/1988, trong một cuộc chiến không cân sức, 64 chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã vĩnh viễn nằm lại giữa biển sâu để bảo vệ chủ quyền của đất nước tại các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Hôm tôi đến Cô Lin (tháng 4/2023), tôi ấn tượng mãi với đàn chó của các chiến sỹ Hải quân đang làm nhiệm vụ giữ đảo ở đây. Không hiểu sao, đàn chó cứ thay nhau ngồi trên bậc xi măng được xây sát mặt nước biển nhìn về đảo Gạc Ma. Tôi đã viết bài thơ Đàn chó ở đảo Cô Lin. Đúng, chúng không chỉ là vật nuôi thân thiết, người bạn của lính đảo, mà còn là những “chiến sỹ không tên” hàng ngày cùng bộ đội cảnh giới bảo vệ “Biển là quê hương, đảo là nhà”.

Đúng là biển ở đây cũng có linh hồn. 64 chiến sỹ Hải quân đã ngã xuống “Hóa thành cột mốc biên cương / Cắm trên đầu sóng kiên cường ngàn năm”, như câu thơ Nguyễn Văn Mạnh đã viết. Cám ơn ông.

Thực ra, không phải đến Phần III của Dấu thời gian có tên “Ngẫm với dòng đời”, nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh mới “ngẫm”. Ở Phần II, ông đã “ngẫm”, suy tư, ưu tư khi viết những bài thơ dành cho nội thân trong Nỗi đau của cha tôi, “Và chiến tranh tàn khốc / Để lại nỗi đau không nói được thành lời" ; Bến thơ (viết cho con) "Cõi đời thương giận mênh mông / Hiện trong hương cốt trầu không của bà / Biết yêu giận, biết xót xa… / Bắt đầu từ truyện của bà đêm đêm".

Nói như thế để thấy, sự phân chia chỉ mang nghĩa tương đối. "Cửa thiền đâu rồi / Dù tiếng chuông vẫn còn ngân nức nở / Giữa ồn ã tiếng nói cười / Khách rời chùa sao như tan hội?", (Nghĩ trước cổng chùa). Hoặc "Cuộc đời như một cõi mê / Đời quan muôn nỗi ê chề nổi lênh / Đem thơ thả giữa mông mênh / Để thơ quyện với buồn tênh khúc đàn”, (Qua bến Tầm Dương). Không ai "bứng" mình ra được khỏi thời gian, với tư cách là vùng ký ức.

Với nhà thơ, hiện thực chiếu xạ vào tâm hồn, qua ngẫm, ngộ mơi trở thành thơ. Điều này góp phần tạo nên thiên chức của thi ca, đi ra từ cái buồn, cứu rỗi mình, cứu rỗi thân phận bằng cái đẹp.

Là nhà báo nên thơ Nguyễn Văn Mạnh, có tư duy hiện thực. Hay nói cách khác, thơ Nguyễn Văn Mạnh ám ảnh trước hết ở những dữ dội từ cuộc đời. Nói như nhà thơ, TS. Lê Tuấn Lộc, thơ không phản ánh hiện thực thì phản ánh cái gì ? Hoặc như "Ông Hoàng thơ tình" Xuân Diệu từng nói "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. Cảm xúc thơ bắt đầu phải là hiện thực.

Trong tập thơ của mình, Nguyễn Văn Mạnh có những bài thơ ám ảnh như Nghĩ về một mặt của chiến tranh...

Chiến tranh
Là quyền uy của những chính trị gia đổi bằng giá máu
Chiếc ghế được tạo thành từ xương và da đồng loại
Nó to và cao hơn khi mỗi quốc gia và dân tộc tan tành.

(Nghĩ về một mặt của chiến tranh)

Bài thơ này làm người đọc suy ngẫm và hiểu được nỗi đau nhân loại khi hơn một năm qua họ được chứng kiến những biến động địa chính trị ở châu Âu, bom vẫn rơi vào máu vẫn đổ. Chiến tranh không bao giờ là trò đùa.

Đọc Dấu thời gian của Nguyễn Văn Mạnh thấy được biên độ cảm xúc của ông. Ông đi từ riêng đến chung, từ mình đến nhân loại. Đó là mạch cảm xúc có tính logic, hay nói cách khác đó là mỹ triết trong thơ. Một số bài thơ như Người đàn bà sau cửa kính, Thơ tặng người công nhân cao su, Người đàn ông hóa đá, Rừng cao su hát..cho thấy Nguyễn Văn Mạnh đã và đang chứng minh thơ ông thuộc về thân phận, không tách rời thân phận.

Gừng cay, muối mặn đinh ninh
Đường xa cái nghĩa cái tình thấm sâu
Qua sông tôi nhớ nhịp cầu
Qua đồng tôi nhớ sắc màu đất quê

(Đến mùa xuân)

Thơ Nguyễn Văn Mạnh cứ thế, xác tín rằng, ông gắn bó với cố thổ, quê hương đất nước; từ đó tiếng thơ cất lời!

Nguồn: https://vlr.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm