- Lý luận - Phê bình
- Nhà thơ Nguyễn Văn Song và sự kiến tạo thi giới trong “Mẹ và sen”
Nhà thơ Nguyễn Văn Song và sự kiến tạo thi giới trong “Mẹ và sen”
Thầy giáo, nhà thơ Nguyễn Văn Song đến với thơ có thể nói là khá muộn so với tuổi . Nhưng đã trở thành một tác gia có tiếng trên văn đàn với những giải thưởng cao quý của các cuộc thi lớn. Và rất quen với bạn yêu thơ khi thường xuyên xuất hiện trên các trang báo và tạp chí từ trung ương đến địa phương.
Anh là người điềm đạm, nghiêm cẩn và không thích phô trương. Nên khi tôi có ý định xin phép anh liệt kê giải thưởng “khoe” với bạn đọc niềm tự hào của người cầm bút, anh đã từ chối. Dù đoán trước được điều này nhưng tôi vẫn cảm thấy hụt hẫng. Anh bảo với tôi anh muốn để người đọc thẩm định chất lượng tập thơ một cách tự nhiên nhất. Vì anh không theo đuổi thi nghiệp, mà chỉ viết để giải tỏa cảm xúc của mình, đơn giản vậy thôi. Có lẽ đó là lý do đầu năm 2022 anh quyết định in cùng lúc hai tập thơ là ” Đi từ phía cổng làng” và ”Mẹ và Sen” như một lời tri ân gửi đến người mẹ yêu dấu (cũng là độc giả đầu tiên của thơ anh) đã qua đời vào tháng 7 năm 2020, đồng thời cũng là một món quà nhỏ gửi đến những người bạn văn chương cùng độc giả của mình.
Nhà thơ Nguyễn Văn Song
Khi biết ý định này của anh tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì ba năm anh cầm bút thì hai năm tôi đã được chiêm cảm những thi phẩm rất hay của anh nên tôi vẫn luôn mong anh ra tập thơ đầu tay. nên khi nghe tên tập ”Đi từ phía cổng làng” thì tôi đã rất hài lòng. Nhưng khi biết tập sau anh chỉ chọn những bài về mẹ và sen để in thì tôi thật sự lo. Bởi không nói thì có lẽ ai cũng biết là thời nay lục bát không còn được ưa chuộng như xưa nữa, thậm chí một số bạn thơ của tôi còn không muốn viết lục bát. Họ chê là cũ và mòn, nhạc điệu du dương dễ gây buồn ngủ… Nên việc in một tập thơ lục bát cũng khiến rất nhiều tác giả đau đầu và không muốn mạo hiểm. Đa phần họ chỉ xuất bản nhiều thể thơ với nhau để tránh nhàm chán cho người đọc. Những tập lục bát đã xuất bản mà tôi được biết đều ngồn ngộn thi ảnh, đa tứ, đa sắc lắm biểu trưng, mà đôi khi đọc lại còn thấy thiếu một điều gì đó, nữa là một tập thơ hơn chín mươi phần trăm là lục bát, lại chỉ có mẹ và sen, chỉ viết về sen và mẹ? Nghĩ vậy nhưng tôi không dám nói ra, bởi so với anh tôi chỉ là một kẻ non nớt, mới cầm bút tập làm thơ nên sợ mang tiếng dạy tiều phu cầm rìu.
Tuy băn khoăn nhưng tôi vẫn tin vào sự lựa chọn của anh và hy vọng mình sai. Sau một thời gian chờ đợi thì tôi cũng nhận được hai thi phẩm anh gửi tặng. Tôi không băn khoăn gì về tập ”Đi từ phía cổng làng’’ bởi tập này thi ảnh khá nhiều, mà thi ngữ của anh thì luôn tròn sáng như trăng rằm, nên tập này sẽ ổn. Vì vậy tôi đọc ”Mẹ và Sen ” trước. Thật may, tôi đã đoán sai. Tuy địa hạt trong thi giới này chỉ có mẹ và sen, nhưng bằng tài năng và bản lĩnh của mình, nhà thơ Nguyễn Văn Song đã biến hóa ra rất nhiều thi tứ . Rồi thăng hoa và tỏa rộng hai thi ảnh ấy thành những cảnh trí và biểu trưng khác nhau, khiến cho thế giới trong thơ anh cũng đa tầng rộn ảnh chẳng kém những tác phẩm khác. Anh sử dụng thủ pháp đồng hiện ẩn ngữ |(trong sen là mẹ, trong mẹ là sen, trong cả hai là làng, là mọi người, là cuộc sống) nên đã tránh được sự đơn điệu cho tập thơ. Mặt khác, khi cầm bút, anh luôn là người tận hiến và tu dưỡng ý thức nghiêm cẩn , rèn luyện cho thi cốt thi cách được viên mãn. Nên mỗi con chữ là một sự cân nhắc, mỗi bài thơ đều là kết quả của sự miệt mài lao động trong đam mê nên đạt được giá trị thẩm mỹ cao.
Mở đầu tập thơ , thật ngạc nhiên là không phải bài về mẹ, cũng chẳng phải bài về sen mà lại là bài viết về làng. Cứ tưởng như phi logic nhưng lại rất hợp lý. Bởi cả mẹ và sen đều ở trong làng, từ làng mà có. Và ngược lại, trong mẹ và sen là ẩn tàng một phần vía hồn làng. Đây là bài thơ duy nhất viết về làng mà tôi nghĩ là sự sắp đặt tế vi của tác giả. Bởi vì sau đó làng đã tỏa bóng mình sang bóng của mẹ và sen, vô hình mà hiện hữu trong toàn tập rồi, nên không cần nhắc đến nữa, mà người đọc vẫn thụ cảm được những mạch chảy của làng. Đó là một ngôi làng như bao ngôi làng khác, có hồ sen, có triền đê và tiếng ếch cốm đêm mưa . Cũng rơm rạ ngập đường, nhưng vẫn mang nét riêng vì nó là nơi nhà thơ ” giấc trưa trốn mẹ ra đồng/ bao năm rồi vẫn phải lòng mùi hương”, ”đêm đông giá buốt ngập trời / ổ rơm thơm thảo quyện hơi mẹ nằm” . Điều này không thể có ở nơi nào khác ngoài cố hương của thi sỹ. Để rồi; “đời tôi bao chuyến đò ngang/ Vẫn đau đáu một cõi làng nơi xa/ chiều nay trở lại quê nhà/ bao nhiêu sợi tóc chợt òa mây bay” (Làng). Chẳng cần tinh ý lắm, chúng ta đã thấy hiện sinh trong làng rõ nét hình ảnh của mẹ và sen. Nếu không có hai hình ảnh này níu giữ, đồng hóa với làng, thì dễ gì khi đi xa lòng anh ” vẫn đau đáu một cõi làng nơi xa”?
Nhớ làng để hữu hình ảnh mẹ:
”Mẹ xé mình, vặn vỡ thoát thai con
Cả trời đất cuồng quay , cả thiên hà tao tác
Bỏ quên mạng mình giữa đôi bờ sống thác
Rạng rỡ ngắm con, mặt trời nhỏ tươi hồng”
Người mẹ lúc này đâu chỉ là của một mình thi nhân, đâu chỉ ở riêng một mảnh làng bé nhỏ nữa, mà đã thoát bay khỏi cái tư hữu, trở thành biểu tượng chung của người mẹ nông thôn Việt Nam. VÌ khi có con người đàn bà nào cũng trở nên vĩ đại:
‘’Đôi tay mẹ đủ mười đốm chai tròn
Mười khối đá trước bão giông nắng lửa
Bàn chân trần ngược xuôi sấp ngửa
Chạy cơn mưa rào vấp tóe máu đồng xa”
(Mẹ)
Nhưng con còn bé sao hiểu được nỗi cô đơn và sự kiệt lực, đức hy sinh của mẹ;
‘’Mùa đông lội xuống đồng làng
Mẹ gầy sương đổ bóng càng thêm xiêu
Cá rô rét cóng kho niêu
Con đâu biết mẹ mấy chiều tái tê”
(Mùa đông của mẹ)
”Mẹ ngồi sàng nhũng đêm dài
Sẩy từng câu hát thức ngoài thềm sương
Đàn cò gánh gạo canh trường
Mẹ ta đổ bóng trên tường mòn đêm”’
(Đàn cò của Mẹ)
Đọc xong những dòng thơ này mấy ai không xoắn lòng luyến nhớ đến mẹ mình? Dường như tác giả đang kéo giãn niềm thương trong từng máu tim, cốt tuỷ bản thân vào thơ để người đọc quán chiếu lại tâm thức mình, mà cùng anh ngậm ngùi hoài nhớ về mẹ. Từ đó đã thụ cảm và đồng hòa được với những nỗi đau của người mẹ khác. Ví như nỗi đau của người mẹ mù:
”À ơi! Đời mẹ là đêm
Dò đi một bước tủi thêm kiếp tàn
Khát tìm trong cõi nhân gian
Một tia nắng ấm hong tan mưa dầm”
(Lời ru của người mẹ mù)
Và sự cô đơn của người đàn bà đơn thân:
’’Đi trong đêm
Tay tự nắm tay mình thủ thỉ
-Chẳng còn xa
Trò chuyện với bóng đổ dài
Đường hun hút gió”
(Đơn thân)
Hay sự ẩn ức tuyệt vọng của người mẹ già trong cơn sốt đất của những đứa con
“Nhà cao tầng mọc ngút trời
Mẹ ngồi bốn phía tường vôi thẫn thờ
Năm phần đổi chủ lặng tờ
Khoảng sân mẹ đứng phạc phờ bão giông
Trông con cả một đời ròng
Mẹ chờ rời khỏi đất không phần mình”
Cứ tưởng người mẹ mù này đã khổ lắm rồi, nhưng vẫn còn một người đàn bà sáng mắt khổ hơn . Vì con bà ấy ‘’Nghiệt oan một chyến đi đường/ Con thành đứa trẻ bất thường , ngây thơ… Không đi đứng, chẳng ngồi bò/ Thể như cây cỏ dần khô lá cành’’
Nên:
‘’Bây giờ con tuổi bốn mươi
Mẹ gần tám chục nghẹn lời ru xưa
Lời ru ít nắng nhiều mưa
Thiếu mây thiếu gió mà thừa bão giông’’
Tôi có cảm giác khi viết những dòng này trái tim tác giả cũng bi thiết, tê điếng cùng nhân vật. Những con chữ như run lên làm người đọc cũng rưng rức theo.
Rõ ràng hình người mẹ ngay từ đầu và đến bây giờ không phải là một thi ảnh hẹp nông nghĩa nữa . Mà càng ngày càng được mở rộng hơn. Mẹ là mẹ của anh, mẹ là mẹ của người khác. Và bây giờ thì mẹ đã vượt thoát thế giới thơ sang thế giới thực với những câu chuyện trái ngang trầm thống thường nhật. Thi giới đang được mở rộng, dẫu vẫn không xuất hiện thêm một biểu trưng hay một khách thể mới nào.
nhưng dù thế nào đi nữa thì mẹ cũng trở về với bản nguyên của mình, là bùn nuôi sen;
lặng thầm gạn lọc tanh hôi
chắt chiu nồng đượm dâng lời ngát hương
sen hồng phả gió muôn phương
hết mùa thân xác lại nương về bùn”
(Bùn)
Tài hoa thay, khi nhà thơ còn khai mở thêm cho thi ảnh mẹ của mình một tầng nghia mới nữa:
”Có một đẵn lưng cong
Mỗi sống đốt đo cả nghìn năm tuổi
Mà gánh bắc gánh nam đi suốt dọc dài …
Tấm lưng gầy vết cứa loét quanh năm
….
Chiều nay thêm một lần vặn đốt
Để sau siêu bão lại dịu hiền dáng mẹ ngàn năm’
(Tấm lưng mẹ)
Bài này anh viết khi miền trung đang phải chịu những cơn siêu lụt, đi đâu cũng găp cảnh’’những ai ở nhà khăn tang trắng chít chồng thêm trắng”. Và thi ảnh mẹ ở đây đã được linh hóa, trở thành đất nước. Tấm lưng xước trầy chịt chằng vết thương chính là miền trung thân yêu, gánh hai đầu nam bắc.
Chúng ta đã thấy, bằng sự điêu luyện trong việc thi triển ngôn từ kết hợp với các biện pháp tu từ nghệ thuật , nhà thơ Nguyễn Văn Song đã xây dựng và triển đạt được hình tượng người mẹ diện đa tầng đa nghĩa, mang đầy tính triết mỹ. Đồng thời đã gợi mở
được mạch nguồn yêu thương và khơi dẫn cho thi giới của mình đa âm đa sắc đa sự . chiếu hiện vào lòng người đọc những âm ba thi cảm khó quên. Và nối tiếp lưu lộ cảm dưỡng này , thi ảnh sen cũng được thi nhân khai thác triển đạt không kém phần ấn tượng.
Đầu tiên , sen là chính sen với :
‘’Cánh thơm xòe ngón ngọc ngà
Nhụy vàng gom nắng đậm đà hương trinh
Lá buông phiến lụa dệt xanh
Sắc hương cho vẹn ân tình sợi tơ’’
(Tơ sen)
Ngay từ những câu tưởng như chỉ đơn thuần miêu tả vẻ đẹp khiết tinh của sen , chúng ta đã thấy hiển hiện chút gì đó của mẹ. Khi sen gom nắng dệt ‘’sắc hương cho vẹn ân tình sợi tơ’’ , chu đáo và công tâm như cách người mẹ lo cho bầy con bé dại của mình. Đến bài ” Một lá sen qua đời ‘’ thì mẹ và sen đã là một bản thể đồng hiện:
‘’Vắt cạn thân thảo mộc
Dâng đến tàn xương khô
Sáng nay trong mưa buốt
Chiếc lá gục bên hồ
…
Tôi ngồi bên hồ vắng
Giữa mây chiều mồ côi’’
Ngoài ra, sen còn là tình yêu đơn phương trầm lặng thanh quý của người thơ muốn tận hiến tất cả cho người mình yêu. Nhưng vì một nguyên nhân nào đó mà anh chưa ngỏ , để rồi ‘’ càng đượm càng nhanh chạm kiếp tàn’’:
‘’Ta khóc sen tàn hay khóc em
Tình thơ một nụ khép lòng im
Hay ta ngồi khóc ta ngây dại“
Nỡ để sen khô lặng lẽ chìm’’
(Uống rượu cùng sen)
Đồng thời cũng là hóa thân của người yêu thi nhân:
“Gót sen em một ngẩn ngơ
Ngó sen em một dại khờ tinh khôi
Tơ sen em bỏ ngang trời
Níu tôi suốt cả một đời vương mang
Niềm sen gieo cõi nhân gian
Tinh khôi giữa những đa đoan nổi chìm
Tôi ngồi đây với lặng im
Lắng nghe sen rỏ vào tim giọt trầm “
(Giọt sen|)
Mỗi một bộ phận của sen là một sắc thái biểu cảm khác nhau, nhưng đều là hình ảnh của người yêu nhân vật “tôi”. Cả hai khổ thơ đều là sen, tràn đầy sen, chật kín sen. Nhưng không vì vậy mà gây cảm giác nhàm chán. Đây chính là tài dụng ngôn của tác giả.
Mặt khác, sen còn là hiện thân của một số phận mệnh bạc, hưởng dương ngắn ngủi, trượt chân gửi xác bên hồ nước :
‘’Đêm qua một bông sen trắng
Say trăng lịm thiếp trong hồ
Hồn thoát bay đi với gió
Bỏ từng xác cánh bơ vơ
…
Hồ thu bập bềnh cánh sáng
Trắng loang cay khói sương mờ
Trăng lên rùng mình inbóng
Một người tóc đợi phơ phơ’’
(Sen trắng)
Không chỉ vậy, sen còn là sức mạnh nội tại tâm linh của mỗi cá nhân, là nơi con người tìm về khi nhiễu tâm loạn tưởng, mệt đau mà thiền định , bình ổn hồn trí, để vượt thoát ‘’rũ buồn trôi về xa lắc’’ và ‘’chỉ còn hương ngát mênh mang:
‘’Còn bao nhiêu niềm phiền muộn
Sen phong kín giữa gương vàng
Để khi em choàng tỉnh giấc
Chỉ còn hương ngát mênh mang’’
(Giấc sen)
Thật bất ngờ và thú vị khi đọc những dòng như:
‘’Có gì nhắn nhủ sen ơi
Màu hoa hay sắc máu người chưa khô
Hay hồn oan khuất ngày xưa
Thành sen nhị sắc bây giờ ngát hương?
…
Ngắm sen lòng dạ bồi hồi
Thấy trong nhị sắc nụ cười Ức Trai’’
(Sen nhị sắc)
Đúng là sự lo lắng ban đầu cho ”Mẹ và Sen’’ của tôi đã là quá dư thừa rồi. Tôi quên mất anh là người rất kỹ tính và viết chậm. Mỗi bài thơ từ khi ý tưởng thành hình đến khi được hoàn tất anh phải mất cả tuần, có khi cả tháng, thậm chí có bài cả năm hun đúc, hàm dưỡng tứ tư từ trong lòng bởi anh ghét sự cẩu thả chín ép. Nên khi hứng đến thì thơ thăng hoa rất tự nhiên, mạnh mẽ, lời tinh ý sáng. Thành ra trên con đường lục bát dễ viết khó hay, không chắc tay sẽ thành vè, xưa nay đã in dấu chân của bao vị tiền nhân nổi tiếng, đã vang khá nhiều tên tuổi cùng thời đại, mà nhà thơ Nguyễn Văn Song vẫn tạo được nét riêng của mình, là vì thế. Tôi lại nhớ đến những tranh cãi cũ mới trên diễn đàn văn chương mà mình được xem, vô tình nghe và tình cờ biết qua bạn bè. Rất nhiều tác giả trẻ không hiểu được khái niệm thế nào là thơ cũ. Họ cho rằng thơ cũ là lục bát và quay đi, lao đầu vào trường phái mà họ tin rằng mới nhất thời đại. Đó là viết thơ tân hình thức. Nhưng họ lại không biết tìm mới thi ảnh, lạ hóa nội dung. Thế là họ chứng tỏ mình mới bằng cách bẻ què chữ , chặt gãy câu, cưỡng ép ngữ… nhiều khi chính họ cũng chẳng biết mình đang hướng đến cái gì, càng khó diễn nghĩa chữ mình viết ra.
Bàn về trường phái này, nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm từng viết: “Về nội dung, thơ theo khuynh hướng tân hình thức không có gì mới, không có gì đặc biệt, nếu không nói là cũ, dễ dãi, nhàm chán.. Họ tạo ra cái mới, tạo ra cái lạ, thu hút người đọc bằng cách bẻ què câu thơ, bẻ gãy câu thơ để không giống ai. Đáng lẽ bảy chữ, tám chữ câu thơ trọn vẹn ý, họ viết năm chữ, sáu chữ một dòng trên còn bẻ hai chữ, ba chữ xuống dòng dưới. Nó vừa vô nghĩa, vừa ngây ngô, vừa cẩu thả. Cách làm này không hề làm tăng giá trị thẩm mỹ, giá trị nội dung của thơ. Trái lại, nó hoàn toàn lộ diện một kiểu thơ nhạt nhẽo, mang tính giải trí là chính. Nó chứng minh sự bất lực của tư duy sáng tạo. Các cây bút theo xu hướng này đang trốn mình khỏi sự truy lùng gắt gao của sự đòi hỏi tài năng đích thực, tìm tòi đích thực, mang lại giá trị mỹ học đich thực đối với thi pháp học đương đại. Và thực tế, dù được một số người cổ súy, đến nay, khuynh hướng thơ Tân hình thức biểu hiện hụt hơi, thiếu sức sống, đang tự chết…’’
Vậy thì thể thơ mới hay cũ đâu phải là vấn đề to lớn của thi ca. Và tôi nhận ra, sở dĩ lục bát thời nay ít được đón nhận hơn không phải vì nó cũ, mà vì nhiều cây bút cứ đi theo lối mòn, không có sự tế vi tinh nhạy, hàm dưỡng ngôn từ, sáng tạo thi ảnh và vượt qua cái bóng của mình. Nên tác phẩm chưa làm hài lòng độc giả. Hãy đọc ’’ Mẹ và Sen” để thấy được sự dụng công, tài hoa và bản lĩnh của tác giả. Tuy rằng chỉ có hai hình tượng, nhưng đã xối trộn ôm trùm lạ hóa và linh hóa, mở rộng thi giới. Điều đó khiến không gian ấy của anh không kém địa hạt chữ rộng thi tứ nhiều thi ảnh của các tác giả khác. Mỗi bài thơ là mẹ và sen lại hóa thân vào những vai trò và vị trí khác nhau, bổ khuyết và làm đầy thi giới mới nghe cứ tưởng rất đơn điệu này. Từ người mẹ ‘’vặn vỡ thoát thai con‘’ trong gia đình, mà dẫn gợi ra bao nhiêu nỗi niềm đàn bà, cũng là những câu chuyện cuộc đời, đã neo được vào lòng độc giả sự đồng cảm, luyến nhớ. Mỗi bộ phận, mỗi màu sắc của sen là một ý nghĩa khác nhau, làm người đọc đi từ bất ngờ này sang ngạc nhiên khác. Biết đâu sau khi đọc xong ’’Mẹ và Sen’’ của nhà thơ Nguyễn Văn Song, độc giả mỗi khi đi qua đầm sen, nhìn lá sen họ liền nghĩ đến mẹ:
“Cánh buồm căng ngực bão
Nâng từng búp non tơ
Chở che muôn cánh trắng
Như lòng mẹ vô bờ”
(Một lá sen qua đời)
Và trông thấy sen trắng, lại nhớ về những linh hồn thân hữu đã ra đi? Khi sen khô lại hồi tưởng đến mối tình dang dở, còn sen vàng mang khuôn mặt người xưa. Hoặc thoảng gặp bông sen nhị sắc ‘’nửa bông trắng muốt như ngà/ nửa bông ứa đỏ như là máu loang’’ lại nhớ đến nỗi oan thấu trời của ngài Ức Trai thì sao? Điều đó thật thú vị, và dễ xảy ra lắm chứ!
VŨ TUYẾT NHUNG