TIN TỨC

Nhà thơ Quang Chuyền - nhìn trời thấy hiện dòng sông

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-04 12:11:42
mail facebook google pos stwis
525 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

1. Mùa xuân này, nhà thơ Quang Chuyền (tên thật là Nguyễn Quang Chuyền) bước vào tuổi tám mươi. Kỷ niệm bước vào bát thập, ông đã làm một “tổng duyệt” thơ, bằng việc ra tuyển tập có tên là Quang Chuyền, thơ và đời, gồm 279 bài thơ. Quang Chuyền bố cục theo giai đoạn, từ 1965 – 1985 (gồm 48 bài), từ 1986 – 2010 (gồm 85 bài), từ 2011 – 2023 (gồm 146 bài).

Như vậy, khi đã ngoài 60, Quang Chuyền sáng tác sung mãn nhất; hoặc những bài thơ ở giai đoạn này, ông ưng ý nhất. Tôi đã từng được Quang Chuyền tặng 5 tập thơ (trong đó có Viết vào năm tháng song ngữ Việt Anh), đều sáng tác vào giai đoạn này.  Đúng là gừng càng già càng cay.

Ngay từ những ngày học phổ thông Quang Chuyền đã có thơ in báo. Năm 1968 đã Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã đăng thơ ông. Thời đó, được đăng thơ trên tạp chí này thật “không phải dạng vừa đâu”.

Do sẵn năng khiếu thơ văn, năm 1966, sau khi tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm Việt Bắc, Quang Chuyền được nhận về làm phóng viên cho Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc.  Thời điểm này, chiến tranh ngày càng diễn ra khốc liệt. Sau 7 lần viết đơn xin nhập ngũ, kể cả viết đơn bằng máu của mình, năm 1968, Quang Chuyền trở thành lính ở Trung đoàn thông tin 132, có nhiệm vụ xây dựng đường dây thông tin liên lạc từ Bắc vào Nam. 2 năm sau ông được điều về Phòng Chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc làm công tác tuyên truyền và sáng tác.

Từ năm 1972, bàn chân người lính thông tin Trần Quang Chuyền đã xuyên Trường Sơn, tham gia đoàn quân cho đến ngày đất nước thống nhất. Những ngày “máu và hoa ấy”, tiếng thơ Quang Chuyền cất lên tinh thần chiến thắng. “Hóa ra, Trường Sơn là cái nôi dinh dưỡng tạo ra những nhà thơ, nhà văn”, (Nguyễn Thụy Kha). Quang Chuyền là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ.

Cho đến nay, nhà thơ Quang Chuyền đã xuất bản 17 tác phẩm, lâu nhất là “Khoảng cuối mùa thu”, (thơ 1999). Ông cũng đã có nhiều thành tựu văn chương, có thể kể đến “Giải ba cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội”, “Giải Nhì thơ Binh chủng Thông tin Bộ Quốc phòng”; “Giải ba viết về Giao thông vận tải” do Hội nhà văn Việt Nam và Bộ GTVT đồng tổ chức năm 2015; Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh tặng thưởng cho tập thơ “Tiếng vọng dòng sông”, năm 2013.


Một số tác phẩm của nhà thơ Quang Chuyền.

Nhà thơ Quang Chuyền sinh vào mùa thu Cách mạng tháng Tám, tại xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay nhà thơ Quang Chuyền cùng gia đình sống tại quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.

2. Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. “Tôi có một dòng trong kỷ niệm / Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng / Phù sa bến Tuần pha trong máu / Cho tôi một đời gạn đục khơi trong”. Đây là bốn câu thơ trong bài thơ tứ tuyệt Dòng sông kỷ niệm của nhà thơ Quang Chuyền. Đọc bài thơ, biết ông sinh ra và lớn lên bên dòng sông Lô.

Sông Lô, dòng sông của lịch sử và văn hóa. Con sông này, được ví như một “con rồng xanh” ưu tư. Nhắc đến Lô giang, hẳn ai cũng nhớ Trường ca sông Lô của cố nhạc sỹ Văn Cao. Quang Chuyền đã từng “Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng”.

Dẫu nửa thế kỷ lập nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, nhưng Quang Chuyền vẫn là con người “quê kiểng”. Chính ông tự họa: “Ta là một gã nhà quê / Bước đời không định lạc về phố đông / Bữa ăn thường thích cua đồng / Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi soi”; “Chẳng phải núi, chẳng là sông / Tôi là gió thổi từ đồng đất quê”, (Tự họa). Chính vì thế, mảng thơ về quê hương Vĩnh Phúc, về người thân khá có “diện mạo”, cảm xúc lắng đọng.

Đọc thơ Quang Chuyền nhận ra ông là con người thủy chung. “Nhìn trời thấy hiện dòng sông / Ngắm sao gặp dáng thần nông của làng”, (Người quê). Quê hương, đúng là mỗi người chỉ một, dẫu bây giờ xã Sơn Động – nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông đã khác xưa rất nhiều nó vẫn luôn là khoảng trời thương nhớ. “Quê nhà mỗi lúc khác quê / Chờ con, vuông đất, bờ tre, xóm giềng / Con đi gìn giữ đường biên / Núi sông lòng mẹ nối liền về con”, (Nhà mẹ có con đi xa)

Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn khôn. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất của tình cảm con người. Quang Chuyền nhớ về quê, nhớ về mẹ với biết bao day dứt ân nghĩa sinh thành: “Mẹ ơi tết đến vui con cháu / Con ngước trời mây chợt lạnh lòng / Một đời sông mẹ trôi ghềnh thác / Chưa một mùa vui gặp khúc trong”, (Ngày xuân nhớ mẹ). Hẳn nhiên, day dứt nghĩa hiếu là tiếng lòng chung của mọi đứa con. Với người trọng tình nghĩa như Quang Chuyền, quê hương, bố mẹ luôn là cảm xúc ám ảnh: “Cha vác xá cày mẹ gồng gánh lúa / Trọn đời người hắt bóng lệch đường thôn”, (Từ đường làng bước sang đại lộ).

Là người lính đi qua chiến tranh, Quang Chuyền vẫn tiếp tục với đề tài hậu chiến. “Bạn bè khuất bóng chiến tranh / Người vào cõi lão, người thành dáng mây”…”, “Nhang trầm thơm thoảng tiếng ơi / Gọi nhau để nhớ cuộc đời còn nhau”, (Trong khói nhang bay). Bài thơ này, Quang Chuyền viết đúng vào ngày 30/4/2015, khi cả dân tộc kỷ niệm 40 năm Ngày Thống nhất nong sông. Nhà thơ Quang Chuyền, không ít lần trở lại chiến trường xưa, tìm đồng đội.

“Ở đây chôn dấu tháng ngày / Chân dầm trong nước, mây bay trắng đầu / Ở đây vùi lấp niềm đau / Xác người, xác đất trong nhau ngập chìm / (Tìm trong rừng đước)

Hiểu được sự khốc liệt của chiến tranh, mới biết nâng niu những giá trị của hòa bình. Thơ của những nhà thơ từng mặc áo lính như nhà thơ Quang Chuyền luôn có ý nghĩa thông điệp.

Mặc dù tuổi đã cao, thế nhưng, với người làm thơ, cuộc đời luôn bám lấy họ, dằn vặt trái tim họ. Nhà thơ hơn ai hết được sở hữu sư cô đơn, kể cả nỗi đau. Quang Chuyền không ngoại lệ. Chính vì thế, ông vẫn tiếp tục viết mảng thơ thế sự. “Với tay vào nắng xế chiều / Chợt nghe trong nắng rất nhiều lạnh mưa”, (Chạm tay xé lịch).

Trái tim mẫn cảm của nhà thơ Quang Chuyền tiếp tục rung lên nhịp đập cùng nhân sinh. “Một đoạn phố đời luôn xẻ làm hai / Phía náo nức phía tủi buồn đi đến” (Đi qua nơi tôi ở); “Nơi này thiếu vắng bóng quê / Chim ơi sao lạc cơn mê phố phường”, (Tiếng chim trong thành phố); “Sẹo người / Sẹo đất / Sẹo cây / Còn thêm vết sẹo / Tháng ngày / Khó quên”, (Ngẫu khúc).

Thơ Quang Chuyền dung dị, thủ thỉ đầy cảm thông, chia sẻ với thân phận người từ quê ra phố mưu sinh, lầm lụi. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từng nhận xét những câu thơ của Quang Chuyền vang lên chứa đựng một vẻ đẹp u huyền.

3. Thơ Quang Chuyền đa dạng đề tài, bao trùm vẫn là thơ trữ tình, đằm thắm về quê hương đất nước. Ông viết nhiều thể loại, nhưng thành công nhất là lục bát, nhất là khi ông viết về quê hương. “Các bài thơ lục bát trong tuyển tập thơ như những cơn mơ đẹp đẽ, da diết và dày vò”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từng nhận xét. Trong tuyển tập Quang Chuyền thơ và đời có 114 bài lục bát, chiếm gần 41%.

Lắng vào ký ức nơi quê / Thẳm nghe tiếng cỏ nhắc về chuyện xưa / Bên sông khuất vắng người chờ / Dòng sông như thiếu một bờ… là tôi”, (Dòng sông một bờ). Bài thơ này nhà thơ Quang Chuyền sáng tác trong một lần trở lại quê nhà. Thường viết về quê hương, người thân, ông sử dụng thể thơ lục bát. Đó là một sự “khôn ngoan”.

Quang Chuyền kể rằng, mối tình đầu của ông chính là mối tình duy nhất. Thuở đi học Sư phạm, Quang Chuyền quen rồi yêu người bạn học, quê Tuyên Quang. Mối tình mơ mộng ấy kéo dài mấy năm. Oái oăm là gần đến ngày cưới thì chị chẳng may gặp tai biến, ảnh hưởng nặng đến sức khỏe. Nhiều người lo ngại cho Quang Chuyền, bản thân ông cũng suy nghĩ rất nhiều.

Sau nhiều thao thức, trăn trở, ông thuyết phục mẹ: “Con gái có thì, người ta đã bao năm chờ đợi, nay chẳng may gặp tai ương sao đành rời bỏ? Đạo lí, tình nghĩa để đâu, nếu bỏ họ?’. Người mẹ ái ngại, cũng là vì tâm lý nước mắt chảy xuôi truyền thống. Quyết tâm của ông được đơn vị, gia đình, họ hàng ủng hộ. Đám cưới được tổ chức ngay khi sức khoẻ người yêu dần dần hồi phục.

Sau khi xây dựng gia đình, sức khoẻ của vợ ông khá lên. Bà đã sinh cho ông ba người con, hai trai một gái, các cháu trưởng thành có công ăn việc làm ổn định và hiện đã “con đàn cháu đống”. Ông trời luôn có mắt, như lời cổ nhân. Chuyện tình của ông bà, cho đến bây giờ vẫn là một giá trị, của đạo thủy chung.

Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh nhà thơ Quang Chuyền khi ông gặp ở TP. Hồ Chí Minh. Giữa phố xá gấp gáp ông an nhiên như lá, xanh đấy, nhưng khiêm nhường. Nhìn ông, cảm nhận bình yên của trung du.

(Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 157, ngày 2/1/2025)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm