TIN TỨC

Đỗ Ngọc Yên viết về nhà văn Lê Văn Thảo

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-10 08:48:35
mail facebook google pos stwis
736 lượt xem

ĐỖ NGỌC YÊN

"Văn chương cần sống thật, viết thật"- Cho đến hôm nay, những người đã từng gặp, trò chuyện hay cộng tác với nhà văn Lê Văn Thảo đều có chung một nhận định rằng ông là người trầm tính, ít nói, nhưng hóm hỉnh và sống rất chân thật. Dù được mệnh danh là anh Hai Sài Gòn, nhưng tuyệt nhiên không thấy ông “xạo” bao giờ.

Lê Văn Thảo là một trong số các nhà văn hiện đại ít gây ồn ào, xung chấn trên văn đàn Việt. Cách đây khoảng trên dưới chục năm, tức là lúc còn đương chức Chủ tịch Hội Nhà văn TP. HCM (2000-2010) và Phó Chủ tịch Hội NVVN (2005-2010), ông từng chia sẻ với văn hữu rằng: Tôi không có giáo huấn gì trong sáng tác văn học, không dạy ai trong các trang viết. Tôi ít tranh cãi nhưng cũng không chiều chuộng. Văn học đối với tôi là nỗi niềm, thân phận, lương tâm, những trải nghiệm cuộc đời và đôi điều suy tư từ những năm tháng sống lặn lội.

*

Nhà văn Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1939, tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Nhưng ông lớn lên ở An Giang, sau đó lên Sài Gòn học Đại học Khoa học tự nhiên. Sau khi tốt nghiệp, năm 1962, ông thoát ly lên chiến khu làm công tác văn hóa văn nghệ. Ông là người từng tham gia nhiều chiến dịch, trong đó có chiến dịch Xuân Mậu Thân, 1968 lịch sử ở Sài Gòn.

Cuộc đời cầm bút viết văn của ông bắt đầu từ năm 1965 với hai mảng đề tài chính là nông thôn và chiến tranh du kích. Nhưng mãi đến 1972, Lê Văn Thảo mới công bố tập truyện ngắn đầu tiên Đêm Tháp Mười. Tiếp sau đấy, ông đã cho ra đời một khối lượng tác phẩm khá lớn, chẳng hạn như: Ông cá hô (1995), Một ngày và một đời (1997), Con mèo (1999), Cơn giông (2002), Truyện ngắn chọn lọc (2003), tiểu thuyết Con đường xuyên rừng (2006), Lên núi thả mây (2011),... Quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và bền bỉ của ông đã được thể hiện qua các giải thưởng cao quý như: Giải A tiểu thuyết của Hội nhà văn Việt Nam; Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2006; Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2007; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho các tác phẩm Con đường xuyên rừng và Tuyển tập truyện ngắn.

*

Cho đến hôm nay, những người đã từng gặp, trò chuyện hay cộng tác với nhà văn Lê Văn Thảo đều có chung một nhận định rằng ông là người trầm tính, ít nói, nhưng hóm hỉnh và sống rất chân thật. Dù được mệnh danh là anh Hai Sài Gòn, nhưng tuyệt nhiên không thấy ông “xạo” bao giờ. Một lần được tiếp xúc, ngồi dùng bữa trong Hội nghị Lý luận- Phê bình văn học lần thứ 3, tháng 6/2013 tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc, tôi thấy ông là người rất điềm đạm và lịch lãm. Tôi đoán chắc ông là con nhà dòng dõi, nên tính ông mới thế. Ông là con ma xó, gần như mọi chuyện thâm cung bí sử đều biết, nhưng lại không bao giờ viết báo hay viết sách theo kiểu lấy chuyện làm quà, đưa đẩy, câu khách như một số người vẫn làm hiện nay. Ông chỉ viết về những con người có tình thân thật sự với ông chứ không muốn tạo dựng giai thoại cho mình hay cho nhân vật đó. Trường hợp mối thâm tình của ông và nhà thơ Lê Anh Xuân là một điển hình. Chẳng thế mà có người bảo hai nhà văn Nam Bộ là Lê Văn Thảo và Nguyễn Quang Sáng chỉ khác nhau ở tiêu chí tửu. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng chỉ đi uống rượu do các fan của ông mời. Còn Lê Văn Thảo đi đâu cũng đem theo cả đống rượu để mời những người ông yêu quý. Nguyễn Quang Sáng hơn Lê Văn Thảo vài ba tuổi, nhưng ông Sáng vẫn uống tốt, còn ông Thảo giờ chỉ uống rượu vang. Tuy uống rượu vang, nhưng lúc nao trong ba lô của ông Thảo cũng có rất nhiều rượu loại chai 50ml bé bằng đầu ngón tay để mời bạn bè. Thế nhưng, khi có người thắc mắc về sự tương đồng giữa phim Cánh đồng hoang do Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản sau ngày giải phóng và truyện ngắn Đêm Tháp Mười của Lê Văn Thảo, ông một mạch cương quyết rằng: Ông Sáng là đàn anh của tao, mãi mãi là đàn anh của tao. Cánh đồng hoang là phim còn Đêm Tháp Mười là truyện, giống nhau cũng có sao đâu!. Điều ấy nói lên tư cách con người của nhà văn Lê Văn Thảo. Chuyện giống hay khác nhau giữa phim và truyện không phải là điều ông quan tâm, mà quan trọng hơn Ông Sáng là đàn anh của tao, mãi mãi là đàn anh của tao,...

Dù nói thế nào đi chăng nữa thì Lê Văn Thảo vẫn là con nhà danh gia vọng tộc, nên sẽ không bao giờ có chuyện quan tâm đến những thứ “vặt vãnh” như thế. Về gia tộc, Lê Văn Thảo gọi Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và tướng “Việt cộng” Dương Văn Nhật là bác. Vì hai ông Dương Văn Minh và Dương Văn Nhật và bố của Lê Văn Thảo - cụ Dương Văn Diêu- là anh em chú bác ruột. Lê Văn Thảo có một khoản thừa kế cả ngàn lượng vàng từ ngôi biệt thự của cụ Dương Văn Diêu để lại, nhưng ông đều nhường hết cho các em của mình, không đụng đến một xu nào.

Nhắc đến cụ Dương Văn Diêu, nhà văn Lê Văn Thảo rất tự hào, vì rằng nhà giáo Dương Văn Diêu đã đào tạo rất nhiều thế hệ học sinh sau này đều thành đạt, có người trở thành nguyên thủ của quốc gia. Riêng gia đình ông sau này cũng đã có ba anh em ruột đều làm quan văn nghệ, gồm: Lê Văn Thảo, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM, Lê Văn Duy, nguyên Giám đốc Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu, Dương Cẩm Thúy Chủ tịch Hội Điện ảnh TPHCM. Có người vui miệng còn bảo Lê Văn Thảo là nhà văn xămđét, tức là dòng dõi hoàng gia, chỉ có điều là hoàng gia của phía bên kia. Nhưng cho dù bên nào đi chăng nữa, đã là xămđét thì cốt cách danh gia vọng tộc cũng đều ăn vào máu cả rồi, không thể nào gột tẩy được.

Khi có người nhắc đến một bộ phim nổi tiếng đã đoạt giải quốc tế cũng nói về đôi vợ chồng làm giao liên giữa Đồng Tháp Mười, gần giống với cốt truyện của truyện ngắn Đêm Tháp Mười của ông, nhà văn Lê Văn Thảo có biết chuyện tác giả kịch bản lấy gần như nguyên cốt truyện Đêm Tháp Mười của mình. Tuy nhiên, ông lại có cách ứng xử rất văn hóa, đúng với cốt cách của một nhà văn xămđét, không làm to chuyện, bởi xấu chàng hổ ai vì xét cho cùng cũng là giới văn chương nghệ thuật cả, sao lại nỡ vạch áo cho người xem lưng.

*

Nhà văn Lê Văn Thảo, khi còn là một người lính, ông đã có ý thức rất rõ giữ gìn những giá trị tinh thần của đồng đội, để sau này nó trở thành di sản văn hóa của dân tộc. Ấy là khi tác giả của Dáng đứng Việt Nam, nhà thơ Lê Anh Xuân bị hy sinh khi bọn địch phát hiện được căn hầm trú ẩn bí mật của anh. Nhà văn Lê Văn Thảo đã đích thân chôn cất người đồng đội anh hùng ấy. Và quan trọng hơn là ông đã tìm thấy và cất giữ rất cẩn thận cuốn sổ chép tay của Lê Anh Xuân, để mãi hơn khoảng nửa thế kỷ sau cuốn Nhật ký Lê Anh Xuân mới được ra mắt công chúng cả nước. Trong cuốn Nhật ký ấy, nhiều trang, đoạn, phần Lê Anh Xuân luôn nhắc đến mối tương giao nghĩa trọng với người đồng chí mình là Lê Văn Thảo và những đoạn cuối do chính tay nhà văn Lê Văn Thảo viết về tình bạn, tình đồng chí thắm thiết giữa hai người trong những ngày chiến đấu gian khổ ở Sài Gòn, hồi Tết Mậu Thân, 1968, cũng là để các thế hệ mai sau ghi nhớ ngày và địa điểm chôn cất người bạn chiến đấu, đồng nghiệp cầm bút của mình. Và ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, lại chính ông là người đích thân đi tìm mộ phần của Lê Anh Xuân. Do hoàn cảnh chiến tranh, việc tìm mộ của Lê Anh Xuân phải mất khá nhiều thời gian. Lê Văn Thảo đã đi gần nát vùng đất khi xưa đã chôn cất Lê Anh Xuân mới tìm ra nơi an táng bạn mình. Hiện nay mộ phần Lê Anh Xuân được cải táng trong nghĩa trang TP.HCM.

Khi là một ông quan văn nghệ, nhà văn Lê Văn Thảo đã làm được nhiều việc, trong đó có hai việc khiến không chỉ những ông quan văn nghệ khác phải sờ lại gáy mình, mà còn làm cho giới trẻ cũng phải tâm phục, khẩu phục.

Thứ nhất là, cách đây vài năm, đến giữa năm 2010, Lê Văn Thảo chỉ dùng nửa số tiền ngân sách cấp thường niên cho Hội Nhà văn TPHCM, nửa còn lại ông để dành cho ban lãnh đạo hội nhiệm kỳ sau, vì ông đã có ý xin nghỉ hưu vào cuối năm. Sự thực thì nhà văn Lê Văn Thảo không bao giờ thiếu tiền, thậm chí ông có rất nhiều tiền trong khoản thừa kế của bố để lại, nhưng đã đem chia cho các em hết, nhưng lại hết sức rạch ròi về tiền bạc, của công tư. Chỉ tiếc cho miệng thế gian, thói đời ganh ghét nên đã nghĩ oan cho ông xài hết tiền nên giờ ban lãnh đạo mới không còn đồng nào để hoạt động (!?).

Đối với các cây bút trẻ, Lê Văn Thảo là người rất độ lượng, sẵn sàng mở lòng, chia sẻ, hợp tác chân tình với họ. Ông đã từng nói một cách thành thực, thẳng thắn và sòng phẳng rằng: Tôi không đồng ý với nhiều người khi cho rằng văn chương trẻ hiện nay nhạt. Tôi thích văn của một số bạn. Văn chương của họ có nhiều nét mới. Thế hệ chúng tôi nhìn đời đau đáu, thế hệ bây giờ nhìn cuộc đời nhẹ nhàng, phóng khoáng hơn... Ông cho rằng các cây bút như Trần Nhã Thụy, Đỗ Duy, Nguyễn Ngọc Thuần, Vũ Đình Giang, Nguyễn Danh Lam… viết hết sức sâu sắc. Vì thế, khi còn làm lãnh đạo Hội nhà văn TPHCM, ông đã mời nhiều cây bút không phải hội viên của Hội Văn học- Nghệ thuật TP. HCM tham dự. Nhiều người bảo tại sao “bố Thảo” lấy tiền của hội đi mời những người không phải hội viên. Nhà văn Lê Văn Thảo nói: Nhà văn là người viết có tác phẩm hay, có tâm huyết và có tài, không dứt khoát cứ phải vào hội mới là nhà văn....

Thiết nghĩ, chỉ từng ấy việc làm có vẻ như ngoài văn chương của ông quan văn nghệ Lê Văn Thảo, cũng đủ cho ta thấy tầm hiểu biết rộng lớn, tấm lòng vị tha và sức lan tỏa của uy tín ông đến mức nào. Tiếc rằng, trong giới văn Việt không có nhiều người nói và làm được những việc như ông.

*

Về văn chương thì Lê Văn Thảo vừa là anh hai Sài Gòn, lại vừa là anh ba miệt vườn. Mà kể cũng lạ, với nhiều người sau khi cuộc chiến đã lùi xa hàng chục năm, dù muốn hay không cũng khó để mà viết tiếp những gì thuộc về ngày xưa ngái ấy thành những trang văn thấm đẫm tình người như ông. Không biết có phải vì sự trung thành với quan niệm văn chương mà xem ra ông có vẻ chẳng giống ai: Tôi viết chậm, thường viết về những kỷ niệm, do vậy viết để phục vụ kịp thời là khó khăn. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, tôi có dịp cùng sống và chiến đấu với các chiến sĩ quân giải phóng, do vậy đề tài chiến tranh với những người chiến sĩ bình thường, tình đồng đội của họ đối với nhau vẫn là đề tài tôi yêu thích. Viết thật giản dị, đó là phương châm của tôi...

Truyện ngăn Con mèo của ông là một minh chứng sinh động cho quan niệm ấy và chắc chắn đã từng làm bao người xúc động. Ông kể: Thằng con tôi ngủ say tới sáng. Nhưng sáng ra vừa thức giấc đưa mắt nhìn quanh, nó hỏi tôi hai con mèo con đâu. Tôi đáp loanh quanh rồi nói sang chuyện khác. Thằng con tôi để tôi yên hai ngày, sang ngày thứ ba không báo trước gì cả, nhắc lại chuyện hai con mèo con, hỏi cụ thể tôi cho ai, người đó ở đâu, tên gì. Tôi thấy chuyện đã không đơn giản. Không thể bày chuyện các “cô chú” ra được nữa, chắc nó đã đoán biết chuyện gì rồi, nó sẽ hỏi nữa tôi sẽ sa lầy vào mớ bòng bong những câu hỏi của nó. Đành phải nói ra sự thật thôi. Nhưng cũng nên nói sự thật một nửa. Tôi nói đem cho một người bạn nhưng giữa đường nó xổng mất. Xổng chỗ nào? Tôi chỉ chỗ. Nó bảo tôi dẫn đến đó. Thì đi. Chúng tôi đến đó cũng vào lúc trời tối, thằng con tôi nhìn đoạn hè đường trống trơn, ẩm ướt, tối mờ mờ nói:

- Hai con mèo con đâu rồi?

Tôi gắt:

- Nó ở đâu làm sao ba biết được. Thôi đi về!

Thằng con tôi chịu về, không hỏi gì nữa. Nhưng như vậy lại càng khiến tôi không thể yên. Như có tội ác nào đó treo trên đầu. Thế là đêm đêm tôi mò ra chỗ đoạn đường vắng, kiểu như phạm nhân tìm lại chỗ hiện trường phạm tội, đứng nhìn một lúc mặt hè đường ẩm ướt, tối mờ mờ, mong gặp lại hai con mèo con, và cũng sợ gặp phải chúng.

... Ngày tháng trôi qua. Thỉnh thoảng đi ngang chỗ đoạn đường vắng tôi cũng có liếc dòm qua, nhưng nghĩ bụng hai con mèo chắc đã lớn rồi có gặp tôi cũng không nhìn ra. Thôi thì chúng cứ sống, còn sống như thế nào là việc của chúng.

Con mèo nhà tôi không hiểu sao không đẻ nữa, tuy vẫn thon thả óng mượt. Nó chán cảnh đẻ không được nuôi con, hay muốn cảnh báo tôi điều gì?...

Dù đã ở vào tuổi cổ lai hy, nhưng sức vóc, trí nhớ, đặc biệt là sức làm việc của nhà văn xămđét Lê Văn Thảo không những không hề suy giảm, mà có vẻ như còn vượng hơn so với khi đang làm công tác quản lý. Minh chứng cho điều ấy là vào giữa năm nay, nhà văn vừa cho ra đời cuốn tiểu thuyết có tên Những năm tháng nhọc nhằn, viết về cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên trong vùng Mỹ ngụy tạm chiếm.

Trong những năm tháng khói lửa của chiến tranh, nhiều người viết nên những trang văn hấp dẫn vì nó nóng hổi bầu không khí của mặt trận tiền phương, mà những người không được trực tiếp tham chiến, sau khi đọc cảm thấy thèm được ra mặt trận như bao người. Những trang văn ấy, không những chiếm được lòng mến mộ của đông đảo công chúng, mà còn được đưa vào sách giáo khoa các cấp học để giáo dục tinh thần yêu nước, lòng quả cảm hy sinh của các chiến sĩ ngoài mặt trận vì độc lập tự do của đất nước, hòa bình cho dân tộc.

Thế nhưng khi cuộc chiến đã lùi xa dần vào quá vãng, cuộc sống trong hòa bình, dựng xây ngày càng đủ đầy hơn về vật chất, thì ngòi bút của chính những người ấy bỗng dưng bị khựng lại, không thể nào viết nổi. Nhiều người đã không thể nào lý giải được nguồn cơn của cái sự bỗng dưng khựng lại ấy. Nhưng nếu nhìn vào trường hợp nhà văn Lê Văn Thảo, không đến nỗi quá khó để chúng ta tìm ra câu trả lời cho nỗi băn khoăn ấy. Không cứ trong chiến tranh, mà ngay cả trong hòa bình, những ai sống cùng nhân dân, đồng bào và đất nước mình thì luôn tìm được cảm hứng cho những trang viết của mình. Những ai tự tách mình ra khỏi nhân dân, tìm nguồn vui trong chức quyền, mánh lới làm ăn hay cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm (Truyện Kiều- Nguyễn Du), thì còn đâu tâm lực cho cảm hứng văn chương nữa. Với Lê Văn Thảo điều ấy hoàn toàn ngược lại, nên ông vẫn đầy ắp nguồn cảm hứng trong tâm hồn để viết nên những trang văn cho đời về cuộc sống của nhân dân, đồng bào và đất nước mình cho hậu thế.

Có lẽ đây là lằn ranh rõ nhất giữa một nhà văn lớn và những cây viết khác. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà văn Lê Văn Thảo là bài học kinh nghiệm quí báu cho những người cầm bút cần phải biết chọn chỗ đứng cho riêng mình, chứ không phải bằng các chiêu trò nhằm khuấy động văn đàn như một số người vẫn thường làm.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Tôi đọc một mạch cuốn sách Người thầy (Nxb Quân đội nhân dân, 2023) của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh xong mà cứ bâng khuâng mãi. Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Xem thêm
Nguyễn Quốc Trung đã về miền mây trắng
Bài viết của nhà thơ Lê Thành Nghị
Xem thêm
Ký ức một thời trận mạc của chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Đó là Đại tá Hoàng Long Xuyên, sinh năm 1918, nguyên Đội trưởng đội du kích Hòa An - Cao Bằng, nguyên Giám đốc Công an Khu tự trị Việt Bắc kiêm Chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng - BĐBP) Khu tự trị Việt Bắc.
Xem thêm
Nhà văn Lương Sỹ Cầm: Như dòng sông lặng lẽ trôi
Nhà văn Lương Sỹ Cầm sinh ngày 15.01.1929 tại Hà Tĩnh, hiện là hội viên cao tuổi nhất của Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua đời vào lúc 13h ngày 28.8.2023 tại Hà Nội hưởng thọ 96 tuổi. Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: “Ông đã sống, đã sáng tạo gần một thế kỷ trên cõi đời này như không hề biết mệt mỏi. Mới cách đây 5 năm, khi ở tuổi 90, ông vẫn cho ra mắt tiểu thuyết Đèn kéo quân và được trao Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng”. Tưởng nhớ nhà văn lão thành Lương Sỹ Cầm, Vanvn.vn trân trọng giới thiệu lại bài viết của nhà văn Nguyễn Thế Hùng về ông.
Xem thêm
Từ Kế Tường đánh thức thời hoa mộng
Từ Kế Tường, tên khai sinh là Võ Tấn Tước, quê gốc ở Bình Đại – Bến Tre, nhưng lên Sài Gòn học khá sớm. 19 tuổi tác giả đã là thư ký tòa soạn tờ Tuổi Ngọc, tờ báo dành cho thiếu nhi. Năm 1969, Huyền xưa, tiểu thuyết đầu tay của ông, được in nhiều kỳ trên báo, sau đó mới in sách, lần đầu khoảng 150.000 bản.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần cuối)
Là một trong những hội viên thế hệ đầu tiên của Hội Nhạc sỹ Việt Nam,
Xem thêm
Phạm Vân Anh - Gót sen nở thắm biên thùy
Từng là sinh viên ngành “hot” (ngôn ngữ Anh) của trường “top” (Đại học Ngoại ngữ Hà Nội), ấy thế nhưng khi tốt nghiệp đại học, Phạm Vân Anh lại quay về quê hương Hải Phòng để làm việc tại Quỹ Bảo trợ Trẻ em thành phố và nhận dạy tình nguyện cho trẻ em lang thang cơ nhỡ tại các lớp học tình thương.
Xem thêm
Nhạc sĩ Xuân Oanh - nhà ngoại giao nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ
Xuân Oanh (1923-2010) là tác giả của bài ca “Mười chín tháng Tám”
Xem thêm
Nhà thơ Vân Long và những người văn Thăng Long
Nhà thơ Vân Long làm việc ở báo Độc Lập, sau này anh về NXB Hội Nhà văn, phụ trách phần thơ.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần 3)
Bạn bè, đồng nghiệp các thế hệ luôn dành cho Xuân Oanh danh xưng Nhà Ngoại giao Nhân dân
Xem thêm
Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương, đôi bạn thơ và vùng hoài niệm
Bài viết của Ngô Đức Hành về đôi bạn Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương
Xem thêm
Mối tình vì hòa bình
Nhạc sĩ Xuân Oanh (1923-2010) tên đầy đủ là Đỗ Xuân Oanh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ông từng làm việc cho báo Cứu quốc.
Xem thêm
Văn Cao: Từ “Buồn tàn thu” tới mùa thu Cách mạng
 Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao (1923-2023), một chương trình nghệ thuật đặc biệt Đàn chim Việt sẽ được tổ chức để tôn vinh tài năng của người nghệ sĩ lớn. Chương trình diễn ra lúc 20 giờ ngày 20.8 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Xin giới thiệu bài viết của nhạc sĩ Trần Lệ Chiến – Phó Tổng biên tập Tạp chí Âm nhạc – Hội nhạc sĩ Việt Nam về nhạc sĩ Văn Cao.
Xem thêm
Đỗ Xuân Oanh - một cuộc đời, một nhân cách
Phim tư liệu giới thiệu nhân kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Bình Phương: Đa tầng hiện thực và cách tân tiểu thuyết
Lần gần nhất tôi gặp nhà văn Nguyễn Bình Phương – Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khi anh tham gia cùng đoàn công tác của Trung ương tham dự hội nghị toàn quốc về công tác tuyên giáo tổ chức tại Quảng Nam ngày 4.7.
Xem thêm
Nhà văn, nhà viết kịch Minh Khoa với những “hào kiệt phương nam”
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TP.HCM số 85, ngày 3/8/2023
Xem thêm