TIN TỨC

Phạm Phương Lan: Lời yêu vẫn đầy

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-03-28 12:02:18
mail facebook google pos stwis
1877 lượt xem

 

       Nhà thơ Bùi Phan Thảo

 Gặp ngoài đời, người ta thường thấy Phạm Phương Lan trong dáng vẻ tươi tắn, yêu kiều. Một người dẫn chương trình duyên dáng, sắc sảo. Một nhà thơ xinh đẹp, khả ái. Nhiều cách nói, nhiều người nói về Lan, đều quy về một người đàn bà đẹp, trời cho cả nhan sắc và tài thơ. Thân hơn một chút, hiểu thêm một chút, Phạm Phương Lan là một người thơ, yêu thơ. Trong thơ lời yêu vẫn đầy. Thơ như đồng hành, thơ đem hương hoa tặng Lan dọc đường đời.

Đọc thơ Phạm Phương Lan, lắm người đôi lúc phân vân: Kiêu hãnh đấy, nhan sắc đấy nên đa đoan đấy, vậy mà thơ pha lẫn yếu đuối, dịu dàng, không gian thơ bàng bạc nỗi buồn. Nhưng ngẫm lại, điều đó là tất yếu, những đa đoan đời gói hết vào thơ. Chính cuộc sống đem lại sắc màu cho thơ Phạm Phương Lan với khoảng trời thơ riêng Lan, nhất là khi được đọc “Mật ngữ em”, tập thơ mới nhất của Phạm Phương Lan, NXB Hội Nhà văn. Một tập thơ đầy đặn, ấp ủ nhiều năm của nhà thơ, đề tài khá đa dạng bên cạnh mạch chủ đề chính là tình yêu. Tập thơ cho thấy độ chín trong ngòi bút, từ tư duy thơ đến thi pháp; ngôn ngữ thơ uyển chuyển, lúc phóng khoáng, nồng nàn, khi dịu dàng, mềm mại. Ngôn từ đã có sức nặng, tạo những dấu ấn cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật đan xen sự chân thành, dễ dàng tạo sự thấu cảm giữa những tâm hồn đồng điệu.


Bìa tập thơ “Mật ngữ em” của Phạm Phương Lan.

Dĩ nhiên với người đẹp bao giờ cũng là thơ tình đi trước. Người hồng nhan, tình yêu thường buồn nhiều hơn vui, thơ Phạm Phương Lan, vì thế cũng đầy những hư hao, khắc khoải, những nồng nàn dấu yêu và mất mát, chia lìa.

Mở đầu tập thơ, Phạm Phương Lan cho ta thấy một tình yêu đang độ nồng nàn. Ngày mới đến thật xanh, điều gì khiến nàng lật tung cả những ngày, tóc, buổi sáng, em và tôi?

“Lật tung ngày hôm qua

em tìm một vần thơ mới

lật tung từng sợi tóc mây

năm ngón ngắn dài mỏng miết

lật tung buổi sáng hôm nay

ngực thơ nõn nà đồng vọng

lật tung

em và tôi

khát thèm

cuồng vọng” (Khấp khởi ngày xanh)

Câu trả lời đã rõ. Mũi tên của thần tình ái lao đi. Và người đó hiện ra. Và ngời ngời hạnh phúc. Và chất ngất nhớ nhung:

“Anh mỉm cười từ trong từng nếp nghĩ

từng nụ cười

dáng đứng của em

anh mát lành hệt như sương đêm

dịu dàng, mơn man như gió

thần tình yêu ơi

ta hận người

bắt ta nhớ anh” (Anh – Lời yêu sương đêm)

Không phải người đàn bà đẹp nào cũng truân chuyên, nhưng hiếm người đàn bà đẹp có tình yêu lặng sóng. Phạm Phương Lan trời cho nhan sắc thì cũng lấy đi nhiều sự bình yên trong cuộc đời. Và cũng công bằng, trả lại cho Phạm Phương Lan được làm thơ. Nên những bài thơ đó cũng quyến rũ, đa đoan, đường nét lúc phô bày khi ẩn giấu, thấp thoáng những triền mơ.

“Ừ sóng cứ lao xao

nỗi nhớ anh lõa thể

chỉ lòng em dâu bể

chiều ngưng trôi hoang tàn

nỗi nhớ anh cũng thể

tỏa hương chiều hoang mang” (Nỗi nhớ lõa thể)

Tựa đề bạo dạn, tâm ý phóng khoáng, lời thơ đẹp. Lõa thể đặt trong ngữ cảnh này như ta hình dung một bức chân dung tuyệt tác của các danh họa. Nhưng phơi bày ra bởi sóng tràn qua, sóng đánh cuốn đi những gì em muốn giấu, muốn cất giữ riêng anh trong nỗi nhớ. “Lòng em dâu bể, chiều ngưng trôi hoang tàn”, để rồi “tỏa hương chiều hoang mang”. Phải yêu đến thế nào mới có những dòng thơ viết như lên đồng, đẹp một cách hoang dại, cho người đọc cũng rối bời, hoang mang.

Thơ Phạm Phương Lan có rất nhiều nỗi nhớ. Trong chập chờn tỉnh mê, thương nhớ ngập tràn, có lời cất lên như một khẩn cầu. Đâu rồi người đẹp kiêu sa, hay đã quên mình đi để nhớ người trọn vẹn?

“Em có được buồn không

khi lòng tái tê nỗi nhớ

muốn gào thét một cái tên mà sao không thể

anh trôi như áng mây trời

chúng mình xa nhau vừa bằng tiếng nấc

nghẹn ngào rơi giữa thinh không”

Cũng tiếng nấc ấy, rơi giữa trời mà vang vọng:

“Xin đấng chúa trời cứu rỗi hiện sinh

cho em được quên đi tháng ngày trìu mến

cho phút giây trong nhau hòa quyện

chỉ còn là khoảng trống hư không” (Xin người đừng lặng câm)

Thơ Phạm Phương Lan không có những tuyên ngôn hay dài dòng đa sự. Thơ cũng như tình yêu, có lý lẽ riêng và có cả những ngập tràn phi lý. Nhưng có hề chi khi cứ dại khờ, yêu không toan tính. Có rất nhiều những tình yêu như phương trình vô nghiệm, bài toán không đáp số, khu rừng không lối ra mà vẫn đắm đuối đời người. Yêu là yêu, thế thôi. Thế thôi mà xa xót, đắng cả một đời.

“Người chở nụ cười về đâu

mây trời lập trình u ám

ta vũ vần không giới hạn

buồn rơi, vô nghiệm cuộc tình”

Biết là vô vọng mà vẫn mong chờ, khắc khoải:

“Người chở giùm ta màu nắng

về phía bảy sắc cầu vồng

người chở giùm ta màu xanh

về phía chân trời hy vọng” (Tình vô nghiệm)


Nhà thơ Phạm Phương Lan.

Những câu thơ đẹp và buồn. Khác với không ít người làm thơ thích trưng trổ nỗi buồn, như một trang sức, Phạm Phương Lan chọn cách đi bên nỗi buồn, đi cùng nỗi buồn. Trong thơ Lan, nỗi buồn lặn vào hay khúc xạ, trầm tích hoặc lấp lánh, đôi khi như chấm sáng nhỏ trong đêm, cánh chim cuối trời, người đọc vẫn nhận ra, đồng cảm, sẻ chia với nhà thơ. Cái buồn từ trong ra ngoài, từ ngoài thấm vào trong, buồn như một bản năng, thuộc tính, nhưng là cái buồn sâu lắng, dịu dàng. Soi mình trong nỗi buồn nên dường như câu thơ trong veo hơn.

“Chẳng cần buồn ngày hôm qua

đắng cay đừng nhớ

chỉ cần biết trong tôi

em là viên ngọc bích

nhiệm màu” (Nụ cười thênh thênh)

Phạm Phương Lan tự sự về mình một cách nhu mì, một lời thưa nhỏ nhẹ, một phác thảo chân dung. Không kiêu sa, khoảng cách vừa đủ, lửa trong mưa vừa ấm, nụ cười an nhiên:

“Không khái niệm mùa hoa, màu sắc cứ rong chơi

em thuộc về miền thiểu số

người đàn bà thơ ẩn trú trong em như cơn gió

du dương thổi suốt bốn mùa

em thắp đèn, nhóm lửa trong mưa

thổi bạt giá băng lòng ai bão nổi

gieo ngọn nguồn yêu thương, chờ bình yên ngày mới

khoe nụ cười từ trong trái tim đau” (Người đàn bà đa đoan)

Lúc này, người đàn bà thơ lên tiếng, sau những lời như giãi bày nhỏ nhẹ lại là thông điệp có phần mạnh mẽ, như thêm một lần xác tín nữ quyền. Những nhan sắc thanh tao, với trái tim đầy những vết cứa cuộc đời vẫn chất chứa yêu thương. Những người đàn bà làm thơ có quyền tự hào và tự tin bước qua những thác ghềnh:

“Vâng, chúng em

những người đàn bà rong chơi

đã hơn nửa đời cuốc cày trên cánh đồng chữ nghĩa

gia tài lận lưng mỗi đứa chỉ dăm ba cuốn sách dâng đời làm mật ngữ

thừa nửa mảnh đời không biết ghép vào đâu

những người đàn bà không biết lả lơi

chỉ quắt quay thương tiếng à ơi phận bạc

cùng nắm tay nhau vượt qua ghềnh thác

rắt réo dập vùi miệng thế gươm đao” (Phơi khô muộn phiền)

Xưa Quang Dũng với “Đôi bờ” từng viết “Thoáng hiện em về trong đáy cốc/ nói cười như chuyện một đêm mơ”, thì nay trong đáy cốc của Phạm Phương Lan là vầng trăng tan:

“Ta ngỡ ngàng chẳng biết vì đâu

Trăng đã tan vùi đáy cốc

Rượu nhạt rồi mà môi em mím chặt” (Thừa ta cạnh đêm rằm)

Chiếc cốc ấy đã rơi, rượu đã không còn. Thêm một cuộc tình đổ vỡ, chia ly, không thể cứu vãn:

“Em đàn bà

đã bao lần vụn vỡ

nỗi đau này là vết rạn mà thôi

anh được gì khi tim em tan vỡ

được những gì ngoài nước mắt em khô?” (Tầm gai thay áo)

Nhưng không thể mãi than van, tiếc nuối. Dù có nghe dư vị chát đắng song qua những câu lục bát nhuần nhị này, đã dặn lòng phải bình tâm, dứt khoát ngẩng cao đầu mà bước:

“Từ ngày người bỏ vào thương

dăm ba nhỏn mặn, một lường chát chua

đảo điên dậu nát, màn thưa

thì coi như nợ đã vừa tính xong” (Thả gió đi rong)

Trong hành trình tiếp diễn của đời người, đôi khi lại dắt đưa về những miền ký ức. Buồn hay vui, hạnh phúc hay khổ đau thì cũng đã đong đầy, theo thời gian sẽ rêu phong, mờ dấu. Trong buổi chiều nào đó, gót hồng ngược miền gió, ngược vệt nắng, ngược bãi sông, để rồi:

“Ngược về ngày tháng bên nhau

trăm lần xác xao vụn vỡ

chòng chành vạt trời hương nhớ

ngược lòng huơ hoác sương mờ” (Ngược em)

Cứ thế, “Mật ngữ em” dắt đưa người đọc vào thế giới thơ Phạm Phương Lan để lắm khi thấy lòng ngổn ngang và “huơ hoác sương mờ”. Bên cạnh những tứ thơ táo bạo, lời thơ đắm say, những nỗi niềm đằm thắm, nhà thơ còn có những suy tư về đời một cách sâu sắc. Điển hình như bài thơ dưới đây về đại dịch Covid-19. Phải qua những thảm họa như đại hồng thủy hay những đại dịch, nhân loại mới nhận ra nhiều điều đã lãng quên hay xem nhẹ trong cuộc sống; những giá trị cũ và mới được nhận diện, con người sẽ phải thay đổi cách sống, nhìn về cuộc sống bằng đôi mắt khoan dung và lượng thứ hơn. Sau chiếc khẩu trang là những con người, kẻ xấu người tốt, ai rồi cũng phải lìa xa cuộc sống, ai cũng chỉ có một cuộc đời để sống. Một dấu lặng Phạm Phương Lan để lại cho người đọc tự suy ngẫm và đồng cảm với nhà thơ.

“Trong cái hỗn mang thời bệnh dịch

tôi nhận ra mặt người qua chiếc khẩu trang

sau chiếc khẩu trang ai người lầm lũi

ai cách ly ai, ai hờn tủi trách đời

ai chữa trị cứu người chẳng kịp nghỉ ngơi

ai đắng cay vung tiền bỏ mạng

thời dịch bệnh, lòng ngay gian lột trần như ban sáng

dẫu chiếc khẩu trang che kín mặt người

ai cười, ai khóc, vinh nhục ai ơi

ai nào khác ai sau ba tấc đất” (Sau lớp khẩu trang)

Trong chừng mực nào đó, thơ cũng là cứu rỗi. Thơ đem lại sự cân bằng sau những chênh chao, bình yên sau đổ vỡ. Thơ như một nơi an trú đầy tin cậy, để tâm thế như nhiên. Và người đàn bà đa đoan như Phạm Phương Lan tự nhận vẫn cùng thơ đi bên nỗi buồn, vẫn là người đàn bà thơ kiêu hãnh. Sự tự tại của tâm hồn như một lời nhắc, bởi lời yêu chưa cạn.

“Vượt đau khổ úa nhàu

vẽ vào cao xanh bồng bềnh trắng muốt

chấm đôi mắt nhung huyền thảng thốt

bật tiếng khóc, cười, sướng, khổ nhân gian” (Người đàn bà đa đoan)

Và đâu đây ta nghe tiếng cười, đủ để vui trở lại, để tiếp tục cho đời những câu thơ đẹp:

“Cuộc đời bến đỗ nơi nao

hờn ghen chi phận má đào tơ duyên

phơi khô cho hết muộn phiền

nụ vui khanh khách đầy phiên chợ đời”.

TP HCM, thu 2021

B.P.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm