TIN TỨC

Ông Cá Hô

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-19 22:01:26
mail facebook google pos stwis
5512 lượt xem

LÊ VĂN THẢO

Làng tôi là một cù lao nhỏ nằm giữa sông Hậu, nhỏ đến nỗi chỉ đi dạo một buổi chiều là hết. Người ta gọi nó là Cồn Te, dài cũng được vài ba cây số nhưng bề ngang mỏng dính, đứng bờ bên này nhìn thấy bờ bên kia. Có chừng vài trăm nóc nhà nằm rải rác trong các khóm cây um tùm, cây ăn trái lẫn với tre trúc, cây hoang cỏ dại mọc tràn lan, nhiều nhứt là cây trâm bầu chẳng ai trồng và cũng chẳng dùng được vào việc gì, cây ô môi tới mùa bông nở đỏ rực thật vui làng vui xóm nhưng trái đen xì, cứng ngắt, chỉ có đánh chó là tốt. Dân làng phần đông làm nghề chài lưới, một số ít làm nghề đan lát hoặc làm ruộng, những thửa ruộng nhỏ xíu cỡ tấm đệm tới mùa lúa thu hoạch được không đủ cho gà ăn. Nói chung làng tôi là một làng nghèo, tuy gần bên thị xã, đứng bên này có thể nhìn thấy chợ Long Xuyên bên kia với tàu ghe đậu san sát dưới bến sông.

Nhà văn Lê Văn Thảo

Vậy mà một hôm có một gánh hát tới diễn ở làng tôi. Thật là một gánh hát mạt hạng, người ta nói thế. Mấy đêm diễn ở đình làng chẳng có mấy người tới coi, chỉ có đám con nít chúng tôi chạo rạo bên ngoài là nhiều. Vậy mà sau khi diễn xong lại đâm ra vui tưng bừng. Ấy là do ông bầu tuyên bố rã gánh, rã ngay tại chỗ, ông nói thế, ông sẽ trả đủ tiền cho mấy đêm diễn, quần áo trang phục ai đang bận người nấy giữ coi như cho luôn rồi ai muốn đi đâu thì đi, riêng vợ chồng ông sẽ qua chợ Long Xuyên dọ giá coi có thể buôn ba khía hoặc mở tiệm bán cháo lòng được không. Nghe vậy đám đào kép liền chộn rộn lên. Đi đâu, làm gì giữa cù lao như vầy? Nhưng nước tới chưn thì phải nhảy, chỉ nội buổi sáng đám đào kép mặt mày còn dính đầy son phấn đã lo bán đổ bán tháo các món áo mão cân đai rồi mạnh ai nấy vẫy tay kêu đò máy người thì qua Chợ Mới, kẻ xuôi xuống cù lao Giêng, kẻ ngược lên miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Bọn trẻ chúng tôi được dịp cha mẹ mua rẻ mớ trang phục của đám đào kép, thôi thì mặc sức bận đủ thứ quần áo xanh đỏ chạy rong khắp làng, đứa bận áo long bào của vua, đứa bận áo gấm của công nương, thái tử, có đứa bận chiếc áo thụng đen của Bao Công lúc xử án Quách Hòe, chiếc áo dài tới gối khỏi phải bận quần. Thật là vui, thật là đáng hoan hô gánh hát!

Nhưng có hai người không đi mà xin ở lại với làng, đó là đào Hồng Điệp và kép Hoàng Dương. Kép Hoàng Dương cất một cái chòi ở đầu Côn, tính bề chuyển sang nghề đánh lưới bắt cá hô. Còn đào Hồng Điệp thì được bà chủ quán cà-phê cho làm người phụ việc.

Một bữa tôi mò ra chỗ ở của kép Hoàng Dương. Đầu Côn là một khoảng đất nhỏ, nhọn như một cái mũi tàu, thấy rõ nước sông chảy rẽ hai bên. Kép Hoàng Dương đang ngồi chồm hổm ngó xuống sông coi nước chảy. Tôi bước tới làm quen:

– Chú Hoàng Dương diễn tuồng hay lắm!

Chú quay lại nhìn tôi nghi ngại:

– Mày coi tao diễn hồi nào? Ở đâu? Tao đâu có diễn ở đây. Do đào Hồng Điệp bị bịnh nên tao cũng nghỉ diễn luôn. Hai tụi tao luôn luôn diễn có đôi có cặp mà. Mày gặp đào Hồng Điệp chưa?

– Gặp rồi, đang rửa chén ngoài quán bà Ba.

Thật ra tôi chưa hề được coi kép Hoàng Dương diễn mà chỉ thấy chú ở bên ngoài rạp, hóa trang làm Cáp Tô Văn, mặt xanh, lông mày chổi xể, hai mắt bịt bạc nhờ hai cái nắp muỗng úp chụp lên mi mắt. Chú vừa diễn xong hoặc không được diễn, đang ngồi chồm hổm bày sòng “bầu cua cá cọp” dụ đám con nít tụi tôi lại, vừa lắc rủng rẻng mấy cục “cá cọp” lo chung tiền hốt tiền các tụ ăn thua vừa lắng nghe tuồng tích đang diễn bên trong, hễ nghe tiếng hô “Quân đâu?”, chú liền bật dậy la “Dạ!” một tiếng thật lớn.

– Ừ, tao là kép Hoàng Dương đây – chú thở dài nói – Nhưng thôi mày cứ gọi Sáu Dương cho tiện. Quê tao ở Rạch Giá cùng quê với đào Hồng Điệp. Nhà hai chúng tao ở cạnh nhau. Rồi cùng đi hát chung một lượt, diễn chung một tuồng. Bây giờ cùng ở lại đây, số kiếp như vậy mà.

Tôi nói:

– Nhưng đâu có ai bắt chú ở lại đây, những người khác muốn đi đâu thì đi mà?

Chú nạt:

– Mày con nít biết gì, chuyện đi ở của người lớn đâu cứ phải muốn là được. Tốt nhứt mày chỉ cho tao chỗ vụng sông nào có cá hô tao bắt ít con bán lấy tiền sống qua cơn thắt ngặt này coi!

Chú sắm một chiếc ghe tam bản, mua ít tay lưới rồi cứ thế xuôi ngược trên sông lớn giăng lưới bắt cá hô. Vùng sông ở làng tôi có nhiều cá hô lắm nhưng chúng ở tận hang hốc nào dưới đáy sông không ai biết được. Những người già, những khách thương hồ thường đi lại trên sông kể rằng đôi khi họ thấy có con cá hô nổi lên lớn bằng tấm ván ngựa, vẩy ánh bạc, hai mắt tròn vo bằng hai cái chén, nó quẩy một cái làm mặt sông nổi sóng lên rồi lặn mất. Chú Sáu Dương miệt mài theo dấu từng con cá hô một, có con chú theo cả tháng trời, ăn ngủ luôn dưới ghe, người đen xạm, gầy rạc đi, hai mắt lúc nào cũng mở thao láo để không bỏ sót một lần nào con cá hô trồi lên. Nhưng đám cá hô tinh khôn cứ lẩn tránh chú hoài, chú thả lưới chỗ vụng này chúng đi vụng khác, có khi chỉ lẩn quẩn trong một vụng mà không khi nào chú lưới trúng chúng được.

Nhưng chú Sáu Dương không hề thất vọng, chú nói:

– Đám cá hô này đã thành tinh rồi nhưng tao cũng đã tu luyện mấy kiếp, chưa biết ai hơn ai đâu.

Chẳng mấy chốc chú đã thành một ngư dân hẳn hoi, không còn bóng dáng gì của người kép hát ngày xưa nữa. Đào Hồng Điệp vẫn còn rửa chén ngoài quán bà Ba, đôi khi được bà sai qua chợ mua đồ đạc. Chú Sáu Dương thỉnh thoảng ghé quán uống ly cà-phê nói chuyện sông nước với khách trong quán. Không thấy chú nói chuyện với đào Hồng Điệp, cô ta đi ra vô cũng không ngó gì tới chú.

Một bữa có người khách vui miệng nói:

– Ở đây đào kép đủ, diễn tuồng coi đi.

Đào Hồng Điệp mím môi có vẻ giận, bỏ đi vô trong. Chú Sáu Dương thì cười nói:

– Thôi mệt rồi, giang hồ phỉ sức rồi, giờ lo mần ăn thôi.

Có vẻ chú chẳng còn quyến luyến gì tới chuyện hát xướng nữa. Nhưng một hôm chú bỗng tâm sự với tôi:

– Thằng nhỏ mày không biết làm người lớn cực khổ như thế nào đâu. Mày có hay ghé quán bà Ba uống cà-phê không ? Có thấy đào Hồng Điệp khỏe không? Như vậy đó, con người ta khi đã gắn bó với cái gì, rồi sẽ khổ với cái đó. Tao thương đào Hồng Điệp từ lâu lắm rồi, từ hồi ở làng, lúc đó cô ta còn nhỏ lắm, vậy rồi ngày tháng trôi qua cho tới bây giờ tao chưa có dịp nào ngỏ lời với đào Hồng Điệp.

Tôi nói:

– Chị ấy ở ngoài quán kìa, sao chú không ra đó nói đi?

– Mày giỏi ra đó mà nói. Nói làm sao, nói thương cô ta à? Rồi cô ta không chịu thì sao, nhảy xuống sông tự tử hả? Mày còn nhỏ không biết chớ chuyện đời khó lắm không dễ như bắt cá hô đâu. Tao đã tính trong bụng rồi, tới chừng thấy chắc đào Hồng Điệp thương tao, tao mới dám nói. Cũng không trễ đi đâu mà vội. Cái chính là đừng cho thằng khác xen vào. Mày rảnh rỗi ra ngoài quán canh chừng dùm tao. Tao thương đào Hồng Điệp quá nên mới theo gánh hát chớ tao có biết hát hò gì đâu, nhưng rồi cố gắng tập tành tao cũng hát được, và khi được hát chung với đào Hồng Điệp tao hát hay hơn gấp bội. Chuyện của chúng tao coi bộ cũng xuôi chèo mát mái lắm, biết đâu lúc được thành đào chánh kép chánh rồi thì cũng nên vợ nên chồng, nào ngờ trúng nhằm cái gánh hát mắc dịch chưa chi đã rã banh.

– Rồi chú tính sao?

– Tính gì? Thì tao ở đây câu cá hô còn tính gì nữa? Nhưng đào Hồng Điệp tao biết chưa yên đâu, cô ta còn ôm ấp nhiều mộng tưởng lắm. Do vậy tao bàn với mày như vầy…

Chú Sáu Dương vẫn quần với bầy cá hô. Có lần chú thả lưới trúng được một con cá hô lớn lắm nhưng nó cứ quẫy hoài dưới nước, chú bèn lặn xuống rồi đôi bên quần nhau ở dưới đó, nước sôi lên sùng sục, thấy có vây cá nổi lên rồi lại thấy có máu nữa, cuối cùng chú trồi lên tay cầm tay lưới rách bươm, mặt mày mình mẩy trầy xuể. Chú đưa tay kia lau máu đang chảy ra, nói:

– Thôi tha nó phen này, coi như tao rộng nó dưới sông vậy thôi.

Rồi chú bảo tôi: Mày ra ngoài quán nói chuyện với bà Ba đi.

– Nói gì?

– Vậy chớ tao dặn mày như thế nào? Phải nói đúng lời tao dặn, không được sai một tiếng. Đi lẹ đi!

Tôi chạy ra quán nói với bà Ba:

– Bà Ba ơi, chú Sáu Dương nói là bà để thư thả chú sẽ chuộc chị Hồng Điệp ra.

Bà Ba cười hỏi:

– Chuộc bằng gì?

– Bằng cá hô. Chú nói sẽ đền bà một con cá hô hai trăm kí không thiếu một gờ-ram.

– Biểu nó ra đây.

Hơn tháng sau chú Sáu Dương bắt được một con cá hô thật lớn, chú để nó nằm chật lòng chiếc ghe tam bản chèo thẳng ra quán bà Ba. Con cá hô được đặt nằm ngay ngắn chính giữa quán, người bu lại coi rất đông, trầm trồ chỉ trỏ. Chú Sáu Dương chọn một góc kêu ly cà-phê uống. Con cá hô há miệng ngáp ngáp, đập đuôi lạch bạch mấy cái rồi nằm yên mở to mắt nhìn mọi người. Đào Hồng Điệp đi ra vô, không ngó con cá hô, cũng không ngó chú Sáu Dương.

Một lúc sau bà chủ quán đi ra kéo ghế ngồi xuống trước mặt chú Sáu Dương nói:

– Vậy là con cá hô này đây hả ? Mày đem nó ra đây để chuộc con Hồng Điệp đó hả?

Chú Sáu Dương cúi xuống với ly cà-phê, không đáp. Bà Ba nói tiếp:

– Nhưng mà mày chuộc cái gì? Tao nuôi con Hồng Điệp thương yêu còn hơn con đẻ, mắc mớ gì mày phải chuộc ? Mà mày nuôi nổi nó không? Thôi mày trả tiền ly cà-phê rồi về đi, còn con cá hô tao sẽ xẻ thịt bán rồi trả tiền mày sau.

Chú Sáu Dương chèo ghe ra về còn bà Ba xẻ thịt con cá hô bán lấy tiền rồi dẫn đào Hồng Điệp qua chợ mua sắm đủ thứ quần áo đồ đạc, rồi mấy hôm sau lại dẫn qua đó nữa không biết để làm gì.

Chú Sáu Dương nằm khòeo ở nhà gác tréo chân nói với tôi:

– Thằng nhỏ mày góp ý với tao coi, tao phải làm sao đây?

Tôi nói:

– Tốt nhứt chú cứ bắt cá hô thật nhiều bán lấy tiền cất một cái nhà thật lớn rồi rước chị Hồng Điệp về đây ở.

Chú thở dài:

– Như vậy nên chăng?

– Nên lắm – Tôi đáp – Hay chú muốn để chị Hồng Điệp rửa chén hoài ngoài quán bà Ba?

– Rửa chén thì tao không muốn rồi, nhưng về đây ở thì… – Chú lắc đầu tỏ vẻ khó xử – Thôi chuyện đó tính sau, giờ mày nghĩ dùm tao coi mấy hôm rày bà chủ quán dẫn Hồng Điệp qua chợ làm gì vậy?

– Có thể bà ấy giới thiệu chị Hồng Điệp với mấy gánh hát.

– Có thể như vậy chăng?

– Có thể lắm.

– Vậy thì được. Hồng Điệp cần phải lo sự nghiệp, còn tao thì lo bắt cá hô, như vậy cũng hợp tình lắm.

Quả nhiên bà chủ quán chạy chọt thế nào Hồng Điệp được vào hát cho một gánh hát bên chợ, gánh hát nhỏ thôi và đào Hồng Điệp cũng chỉ đóng vai phụ, nhưng như vậy cũng là điều mừng rồi. Còn hơn rửa chén ngoài quán. Chú Sáu Dương nghe vậy thì vui lắm. Tôi lúc đó đã qua học bên chợ và chú dặn tôi thường xuyên theo dõi để báo cho chú biết tin tức về đào Hồng Điệp: cô ta đang diễn tuồng gì, sắm vai nào, bận quần áo son phấn ra sao. Và rồi tối đến tôi nghe tiếng chú hát vang vang trên sông, thường là lời hát của một vai diễn nữ nên tôi đoán đó là lời hát trong vai diễn của đào Hồng Điệp:

“Chàng ơi, phận thiếp đành bạc mệnh

Chốn loan phòng gãy gánh đường tơ

Suối lệ ngập tràn nát cánh hoa rơi

Ôi lang quân ơi, lang quân ơi thiếp xin đành lỡ hẹn.”

Lại có một hôm chú hát nguyên cả một tuồng, khi đóng vai này khi đóng vai khác, tới vai một người chinh phụ giọng chú ngân dài hơn hết thảy.:

“Chờ ai, chờ ai vắng bóng

Tiếng trống xa đưa như là chiếu triệu chồng ta

Chốn giang biên người có biết có hay chăng là…”

Một hôm tôi về báo cho chú một tin :

– Chị Hồng Điệp được đóng vai chánh rồi, có hình treo ngoài cửa rạp hát.

Chú trố mắt nhìn tôi:

– Hình như thế nào?

– Không đẹp, là do bị nước mưa làm lem. Nhưng coi cũng giống lắm.

– Nhưng đóng với kép nào?

– Không biết. Người ta chỉ vẽ hình quảng cáo thôi mà.

Chú Sáu Dương trầm ngâm suy nghĩ. Hôm đó chú bắt được một con cá hô rất lớn. Con cá hô đang giương mắt nhìn chú. Chú cũng nhìn lại con cá hô. Rồi chú nói:

– Được rồi, để tao qua đó coi thế nào.

Chú không đi một mình mà đem con cá hô theo. Theo lệ thường cá hô bắt được người ta xẻ thịt bán ngay tại chỗ. Chú Sáu Dương cũng làm như vậy. Nhưng chú lại chọn đúng ngay cửa rạp hát, dưới tấm hình của đào Hồng Điệp để xẻ thịt con cá hô rao bán. Chú gõ lanh canh con dao, cất tiếng chào mời người đi qua đường, ban đầu mời mua thịt cá hô, sau tới mời mua vé xem hát. Rồi chú hát ứng khẩu tại chỗ một bài hát lời lẽ có nói tới chuyện canh chua cá hô lẫn với chuyện một công nương nào đó vì bị phụ tình mà phải quyên sinh, hồn phiêu diêu nơi chín suối.

Rồi chú ra về lòng vui khấp khởi, chú rủ tôi tới nhà ăn cơm và bắt tôi thức khuya để nói chuyện:

– Mày không biết đào Hồng Điệp đóng tuồng hay như thế nào đâu. Do đẹp người đẹp nết nên đào Hồng Điệp đóng rất giỏi trong vai các công nương quyền quý, các người yêu của hoàng tử cũng như vai cô Tấm cô Cám, các người hầu trong cung, bà mệnh phụ cùng cô gái quê, các người vợ không bao giờ cưới…

– Vậy là đóng được hết thảy hả?

– Đóng được hết. Chỉ sợ soạn giả không viết kịp tuồng thôi. Tao nhớ lần Hồng Điệp đóng vai người thiếu phụ Nam Xương, Hồng Điệp ngồi bên khung cửi vừa dệt vải vừa cất tiếng khóc, cô ta cứ khóc hoài tới nỗi tao đóng chung tuy vai tao không khóc tao cũng phải chảy nước mắt…

Tôi ngờ rằng chú Sáu Dương có sự lầm lẫn nào đó, nhưng tôi không rành mấy về chuyện tuồng tích nên không biết đích xác. Vả lại chú Sáu Dương vốn coi chuyện tuồng tích với chuyện cuộc đời là một, chuyện lầm lẫn cái này với cái kia nào có quan trọng gì.

Không biết sau lần bán thịt cá hô của chú Sáu Dương gánh hát của đào Hồng Điệp có bán được thêm vé không, nhưng chú Sáu Dương hào hứng lắm, tiếp tục “phát huy chiến quả”, những lần bắt được cá hô sau đó chú đều đem qua chợ bán, cũng xẻ thịt ngay trước cửa rạp hát, dưới hình đào Hồng Điệp, tới nỗi đa số dân thị xã quen mặt chú, tuy không ai biết chú là kép hát ngày xưa, tên Sáu Dương cũng không ai biết, người ta chỉ gọi chú là “Ông Cá Hô”.

Tôi lớn lên và cuộc sống bắt đầu có những bận rộn, vướng mắc riêng, chú Sáu Dương lại già đi nên quan hệ của chúng tôi cũng thưa thớt dần. Một bữa chú cho người gọi tôi lại, nói với vẻ phiền lòng:

– Nhỏ à nghe tao hỏi điều này…

Tôi nói:

– Cháu lớn rồi chú à, cháu đã học trung học rồi.

– Cũng không lớn hơn ai đâu – Chú nói giọng hơi buồn buồn – Mày ráng nghĩ dùm tao chuyện này coi, chớ mày đi học để làm chi. Mày thấy coi chẳng lẽ tao đi bắt cá hô hoài hay sao? Không làm được chuyện gì nở mày nở mặt được hay sao?

Chú nói và trố mắt nhìn tôi khiến tôi cũng mủi lòng.

– Vậy ta bàn thử coi.

– Ừ ta bàn đi – Chú nói – Nhưng mày ngồi ngay ngắn lại cái đã, học sinh trung học không có kiểu ngồi như vậy.

Dạo đó tỉnh tôi có lệ tổ chức đua ghe hàng năm, vào mùa nước lên, do các quan chức ở tỉnh bày ra nhưng các vị thường chỉ tham dự lấy lệ, sau đó cuộc vui là của dân chúng với nhau. Khúc sông được chọn làm lộ trình đua là khúc sông chú Sáu Dương thường thả tới lui để câu cá hô, có lẽ do vậy nên chú nghĩ mình là người hiểu nó, có thể chiến thắng nó. Chú tìm đến một đội đua xin tham gia, làm chân giữ lái và sau đó không màng gì tới chuyện lưới cá hô nữa mà suốt ngày cùng đám thanh niên tập bơi, tập gõ phèng la, hò hét inh ỏi.

Ngày đua đã đến, đúng vào ngày rằm tháng bảy, nước dâng tràn bờ, từ sáng sớm người đi coi đã bu đông nghẹt hai bên bờ sông. Dưới sông các ghe đua sắp thành hàng ngang, các tay bơi quần xanh áo đỏ ngồi thành đôi đều tăm tắp, ghe được sơn phết thành hình rồng rắn, mũi ghe vẽ hình đầu con cá ngẩng cao lên. Trên khán đài các quan chức của tỉnh ngồi đủ mặt, lại thấy có đào Hồng Điệp ngồi trong đó nữa. Thường là như vậy, những khán đài danh dự, để có đủ màu sắc người ta hay chọn giới văn nghệ ngồi chung với các quan chức nhà nước, kiểu như mời anh nhà văn đi ăn cơm với tổng thống. Đào Hồng Điệp không mấy nổi tiếng ở chợ tỉnh nhưng do diễn lâu năm nên cũng được nhiều người biết tiếng, và vì về sau này do lớn tuổi chị ít diễn hơn, thay vào đó tăng cường làm công tác xã hội kiểu như đi dự các buổi lễ, phát chẩn, trồng cây ở nghĩa trang, hoặc phất cờ trong các cuộc đua xe đạp. Đào Hồng Điệp ăn bận sang trọng, người hơi mập ra, hai cổ tay đeo đầy vòng vàng, vòng cẩm thạch, đầu đội một chiếc nón rộng vành kiểu rất lạ. Chị thường xuyên nghiêng đầu bên này bên kia cười nói với quan tỉnh trưởng tỉnh phó ngồi hai bên, vành nón cạ cạ vào cổ hai vị khiến họ bị nhột cứ cười rúc rích.

Đúng chín giờ, vào lúc con nước nhửng (nghĩa là đứng lại giữa ròng và lớn), phát súng lịnh nổ, các tay bơi cùng lúc ấn mái dầm xuống nước, các ghe đua rướn lên, mặt sông rùng mình nổi sóng, cùng lúc tiếng reo hò, tiếng gõ phèng la vang dậy cả một khúc sông.

Chiếc ghe đua của chú Sáu Dương bơi ở đường đua sát bờ sông, tôi chạy theo để động viên chú:

– Ráng lên chú Sáu ơi, có chị Hồng Điệp coi chú đua trên khán đài kìa!

Chú không hề nhìn lên, hai tay chú ghìm chặt tay lái, mắt gườm gườm nhìn thẳng về phía trước, chiếc khăn rằn cột trên đầu sút sổ bay xỏa về phía sau. Mức đến ở ngay dưới khán đài. Tôi thấy chị Hồng Điệp đưa tay chỉ chiếc ghe của chú Sáu Dương nói gì đó với vị quan chức ngồi kế bên. Chị giới thiệu chú với vị quan kia chăng? Nhưng giới thiệu như thế nào? Tôi vẫn chạy theo chiếc ghe của chú Sáu Dương, ghe bơi càng lúc càng nhanh khiến tôi vấp té nhiều lần, nhưng rồi tôi vẫn lồm cồm đứng dậy chạy tiếp, có cảm giác thân thể tôi hòa nhập vào chiếc ghe của chú và bước chân của tôi cũng tiếp sức được cho chú.

– Ráng lên chú Sáu ơi – Tôi lại la lên – Gần tới mức ăn thua rồi.

Tôi hét đến khản cả cổ, chiếc ghe của chú Sáu Dương cũng rướn lên, so kè với mấy chiếc ghe đi đầu. Còn hai trăm thước, rồi một trăm thước. Tiếng la của tôi bị át mất trong tiếng la hét của hàng ngàn người đi coi càng lúc càng đông đổ thêm ra chật hết bờ sông. Còn năm chục thước! Chiếc ghe của chú Sáu Dương bỗng rướn tới thêm nữa, dần dần vượt bứt chiếc ghe đi đầu.

Tôi bật hét lên:

– Mình ăn rồi chú Sáu ơi! Hoan hô chú Sáu!

Ghe của chú Sáu Dương càng lúc càng bứt xa. Tôi tốc chạy trước đến khán đài, đưa hai tay cao lên, quay nhìn lên chỗ đào Hồng Điệp. Chị đang ngồi sát vào vị quan kế bên, cánh tay trắng nuột có những ngón màu hồng gần như choàng qua cổ ông ta, tay kia chỉ trỏ, miệng cười nói. Chiếc ghe của chú Sáu Dương đang từ xa lao tới, như vũ bão, mũi ghe hình đầu con cá nhe răng ngẩng cao lên trong niềm hân hoan đón chờ chiến thắng. Nhưng rồi tất cả bỗng sụp đổ. Chú đã nhìn lên khán đài và thấy cái gì chăng? Chỉ còn cách mức ăn thua không đến hai chục thước, chiếc ghe của chú bỗng quẹo ngang, nhảy chồm lên rồi chúi mũi xuống, chìm lỉm.

Chú lóp ngóp lội lên bờ, người ướt sũng, buồn rầu nói với tôi:

– Tao bị trật tay lái, bậy quá!

Tôi vội an ủi chú:

– Thôi để năm sau mình tính chuyện ăn thua. Chị Hồng Điệp nhắn muốn gặp chú!

Chú liếc nhìn tôi:

– Gặp chi vậy?

– Không biết. Chị ấy nói chú tới quán…

– Mày đi với tao chớ?

Hai chúng tôi đến quán ngồi đợi một lúc lâu mới thấy đào Hồng Điệp ra. Chị vén áo đi vào quán chọn một chiếc ghế ngồi xuống ngó hai chúng tôi rồi ngó chung quanh quán như muốn quan sát, tìm hiểu chuyện gì. Chú Sáu Dương bận quần cụt áo thun, bộ đồ đua ghe rẻ tiền loang màu lem luốc, chú thấy ngượng và cũng vì lạnh cứ ngồi co lại.

– Em Hai khỏe không? – Chú nói, giọng hơi run – Lâu nay có được tin gia đình không? Em Hai ăn cái gì đi, hồi sáng tới giờ bận coi đua ghe chắc em Hai đói bụng rồi.

Hồng Điệp cười:

– Anh Sáu cũng ăn cái gì đi, ăn vô cho nó bớt lạnh. Trời ơi, còn nhỏ nhít gì nữa mà anh Sáu đi đua ghe chi vậy ? Lại còn bị chìm ghe nữa! Tôi đã nói rồi cái số anh Sáu luôn xui xẻo mà.

Chú Sáu Dương mệt quá không ăn được, chỉ kêu cho tôi tô hủ tiếu với chai nước ngọt. Hồng Điệp cũng ăn một tô hủ tíu rồi ăn thêm rất nhiều trái cây và uống một ly sữa đầy. Chị nói:

– Anh Sáu để tôi trả tiền nghen!

– Không, để tôi trả – Chú Sáu Dương nói – Tôi mới bán được con cá hô.

– Anh Sáu làm ăn khá không?

– Cũng khá.

– Có vui không?

– Cũng vui.

Không còn chuyện gì để nói nữa, chú Sáu Dương chào từ giã đào Hồng Điệp dẫn tôi ra về. Tôi tưởng chú buồn vì cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhạt nhẽo, nào ngờ chú lại đâm vui vẻ.

– Mày thấy đào Hồng Điệp ra sao? Cũng còn “tươi” quá hả? Là do Hồng Điệp biết chăm lo con đường nghệ thuật của mình. Đó mày thấy không, cổ ăn nhiều trái cây để da dẻ được mịn màng, chớ ăn uống cẩu thả như tao với mày thì chỉ có nước đi bắt cá hô.

Một dạo tụi lính kéo về chợ tỉnh rất đông. Tuy đã ký kết hiệp định đình chiến nhưng bọn giặc muốn gây sự nữa nên thường xuyên cho lính đi càn bố, ban ngày chúng lùng sục các xóm ấp ở trong quê, tối kéo về chợ ngủ, nhậu nhẹt, quậy phá các quán xá, rạp hát. Rạp của đào Hồng Điệp cũng chịu chung tai họa ấy. Mỗi đêm diễn chúng kéo vào không mua vé, ngồi ghế sau gác chân lên ghế trước, hút thuốc uống rượu, ném đá lên sân khấu, hò hét huýt sáo và sau đó chận ở cửa níu kéo, tán tỉnh các đào hát.

Tôi về kể chuyện đó cho chú Sáu Dương nghe. Chú cau mặt hỏi tôi:

– Vậy tính sao đây?

– Đâu biết tính sao – Tôi đáp – Tụi nó đông quá lại có súng, mình đâu làm gì được.

Chú cúi đầu ngẫm nghĩ:

– Phải, mình có súng đâu mà bắn lại tụi nó. Nhưng chẳng lẽ lại chịu thua?

Mấy ngày hôm đó chú Sáu Dương có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, ít cười nói, cá hô bắt được cũng không đem qua chợ bán. Đã tới ngày cận Tết rồi các gánh hát đáng lẽ tăng suất hát gấp đôi gấp ba thì lại đóng cửa rạp im ỉm hoặc chỉ hát cầm chừng. Nhưng như vậy cũng không yên được với bọn lính, chúng kéo đến cửa rạp đòi các cô đào hát ra cho chúng gặp mặt:

– Sao, đào kép mà không diễn tuồng à? Cũng như lính tráng tụi tôi không đi đánh trận vậy hả?

Một buổi chiều đi học về tôi ghé qua nhà chú Sáu Dương không thấy chú đâu cả. Chạy ra quán thì bà Ba nói:

– Nó chèo ghe qua chợ rồi, mày theo nó lẹ đi!

Tôi tức tốc nhảy xuống đò đi qua chợ. Trời đã tối, chợ đã lên đèn. Tôi đến trước cửa rạp hát thấy có người bu đông nghẹt. Một tốp lính đứng vòng quanh, chú Sáu Dương đứng chính giữa. Một tên lính hỏi:

– Mày là thằng nào?

– Tôi là người bắt cá hô – Chú đáp.

– A, thằng bắt cá hô mày nghe đây – Tên lính cười sằng sặc nói tiếp – Chuyện lặn hụp dưới nước bắt cá hô là chuyện của mày, còn chuyện đi coi hát chơi giỡn với mấy con đào là chuyện của tụi tao, mắc mớ gì tới mày mà mày xía vô? Hay mày muốn giành mấy con đào hát với tụi tao?

Chú Sáu Dương đáp:

– Tôi không giành giựt gì hết, nhưng mấy ông hãy để yên cho người ta hát.

Tên lính càng cười lớn:

– Trời ơi đào hát là để cho mọi người mà, chớ chẳng lẽ đem giấu trong buồng ? Thôi được rồi, bọn tao với mày phải tính cho xong chuyện này. Mày muốn chơi theo kiểu nào?

– Mấy ông có súng mà, bắn chết tôi lúc nào chẳng được.

– Súng thì tụi tao không bắn rồi – Tên lính nói – Nhưng tụi tao sẽ bắn chết đứa nào nhảy vô can vụ này. Mày chơi chớ?

Chú Sáu Dương đưa mắt ước lượng đám lính đứng chung quanh:

– Được rồi, nhưng tay không chớ?

– Dĩ nhiên rồi.

Tôi đứng ngoài hét lên:

– Không được đâu, chúng đông lắm chú Sáu ơi!

Một tên lính chẹn lấy cổ tôi, bụm miệng tôi lại. Chú Sáu Dương không nghe tôi nói, bàn luận kỹ với đám lính:

– Từng người một nghen, hết người này tới người khác. Ai có cà rá hoặc đồng hồ cũng phải gỡ ra hết.

Tên lính đầu tiên là một thằng say nên chú Sáu Dương dễ dàng đấm trúng mặt nó. Nó té sấp xuống mặt đường, nước mũi lẫn với máu chảy ra lầy nhầy trên đất. Tên thứ hai thật dữ dằn, mặc dù cũng say nhưng nhảy tới nhảy lui nhanh lẹ như con chồn đèn, nó không dùng nắm đấm mà xòe mấy ngón tay có móng nhọn cào vào mặt, vào cổ, vào bụng chú Sáu Dương. Chú cố gắng nhảy né tránh nhưng cũng bị trúng mấy vết ở mặt, máu bắt đầu chảy loang ra. Tôi đứng bên ngoài chỉ chỏ trợ giúp chú:

– Coi chừng, nó tính cào bụng chú kìa!

Chú đưa tay gạt ngang, nhưng tên lính ranh ma liền không cào nữa mà chụm mấy đầu ngón tay lại đâm thẳng vào bụng chú. Chú bị trúng liên tiếp mấy cái, lảo đảo, nhưng thật là bất ngờ, hai tay chú đang ôm bụng, chân chú bỗng vung cao đá quét ngang cổ tên lính, kiểu như người ta dùng phảng để phạt cỏ. Tên lính đổ sụp xuống, nằm đè lên tên trước. Tới tên lính thứ ba chú Sáu Dương gần như đã kiệt sức rồi, chỉ lo chống đỡ là chính, tên lính thấy vậy cứ nhằm chỗ mấy vết thương của chú mà đánh. Chú co người lại dùng hai tay che các chỗ nghiệt, cố tìm cách đeo bám lấy nó để nó không thể tung những cú đấm từ xa hoặc quật chú xuống mặt đường.

– Mày ra đi, để tao! – Một tên lính khác thấy vậy liền quát lên, xắn tay áo lên để lộ những hình xăm đen vằn vện như mặt quỉ.

Tôi hét lên:

– Không được đâu!

Một tên lính lại chẹn lấy cổ tôi:

– Mày binh hả? Mày là thằng nào, cũng thuộc loại cá hô hả? Vậy thì tao cho chết luôn một thể.

Tên lính xâm mình đánh chú Sáu Dương bằng những cú đấm thẳng vào mặt, vào bụng, vào hai bên cạnh sườn. Chú ói ra từng bụm máu. Các vết thương ở mặt ở cổ cũng bật chảy máu ròng ròng. Cả người chú đẫm máu, môi và mắt sưng vù. Tôi giãy giụa nhưng tên lính đã lôi tôi ra xa, tôi không còn thấy gì nữa chỉ nghe tiếng đấm lịch bịch của tên lính vào người chú Sáu Dương, và tiếng chú thét lên, giọng không còn nhận ra được nữa:

– Mày đánh chết tao đi! Không thì tao cũng đánh chết mày!

Lâu lắm mới thấy có đám quân cảnh tới. Chú Sáu Dương đã không đứng được nữa rồi, hai tên lính phải kè chú giải đi. Chú cố quay lại nói với tôi:

– Đừng khóc, nhỏ ! Báo với Hồng Điệp là tao bị bắt rồi. Rồi tao sẽ ra tù trở về, tao không cho thằng nào phá đào Hồng Điệp đâu.

Việc chú Sáu Dương bị bắt bị xử tù như thế nào, tôi không được biết, sau đó thời cuộc chuyển biến, tôi ra đi theo con đường của tôi. Nhiều năm sau bao nhiêu chuyện khác xảy ra khiến tôi quên dần câu chuyện chú Sáu Dương cùng những chuyện khác của quê hương. Cho tới hơn hai chục năm sau…

Tôi trở về Long Xuyên, sực nhớ ra liền đi tìm thăm chú Sáu Dương. Chú vẫn ở chỗ cũ, ngay đầu cồn, khoảng đất tưởng chỉ một mùa nước lũ là bị cuốn phăng đi vậy mà vẫn còn hoài với năm tháng.

Chú Sáu Dương chống gậy lần đi ra, không nhìn thấy tôi nhưng nhận ra giọng nói của tôi:

– Mày về tới đó hả nhỏ?

Tôi cười đáp:

– Cháu già rồi chú ơi, tóc cháu bạc hết rồi đây nè!

– Cũng không già hơn tao đâu – Chú nói – Nhưng như vậy cũng lâu quá rồi hả? Lâu nay mày sống thế nào? Có vui không? Có chuyện gì buồn không? Có nhớ món canh cá hô không?

Tôi đáp rằng tôi cũng sống như mọi người, chuyện vui buồn cứ lẫn lộn không sao biết được. Rồi tôi hỏi chuyện chú, chuyện đào Hồng Điệp. Thì cũng như vậy thôi, chú đáp, lần đó chú bị bắt đi tù. Rồi hết hạn tù chú bị đưa đi lính, ở lính chú đánh một thằng sĩ quan nên lại bị tù nữa. Rồi chú lại ra tù, trốn lên vùng rừng núi làm nghề cưa gỗ, săn thú để kiếm sống. Lại có mấy năm chú lưu lạc ra vùng biển làm nghề câu mực, suốt ngày ngồi khoanh tròn trên chiếc thuyền thúng, nhiều bữa không thấy tàu tới vớt, tưởng phơi xác luôn ngoài biển. Nói chung chú lang thang nhiều chỗ nhưng dù ở đâu chú cũng nhớ tới đào Hồng Điệp, tìm cách hỏi thăm tin tức cô và khi được biết cô vẫn bình yên, có người che chở, là chú yên lòng, gắng tiếp tục sống.

– Như vậy đó nhỏ à – Chú kể xong rồi nói – Rốt rồi tao về đây, mày cũng về đây, còn đào Hồng Điệp thì vẫn ở bên chợ. Mày thấy không, mọi chuyện rồi cũng đâu vô đó hết. Ai nấy cũng đều yên vui cuộc sống của mình. Mày có gì gấp không? Có bận bịu gì không? Nếu không, ở đây ăn cơm với tao, dù gì tao cũng đãi được mày cơm gạo trắng với cá hô, dĩ nhiên không phải do tao đánh được… Rồi chút nữa mày về bên chợ có gặp đào Hồng Điệp cho tao nhắn…

Tôi nhìn ra ngoài đầu cồn, thấy nước sông vẫn chảy rẽ ra hai bên, cuộn xoáy, thỉnh thoảng những những hình thù kỳ dị lại nổi lên rồi vụt biến mất, không để lại dấu vết gì…

7-1993.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bến nguyện – Truyện ngắn của Ninh Giang Thu Cúc
Bước chậm chậm, Dã Quỳ để mặc cho làn mưa bụi hắt vào mặt những sợi nước li ti mát lạnh, gió xuân mơn man vuốt nhẹ từng lọn tóc thả hững hờ trên đôi vai tròn trịa, chiếc áo dài bằng lụa màu tím than ôm sít sao dáng vóc gợi cảm của người thiếu phụ.
Xem thêm
Quy cố hương - truyện ngắn Châu Đăng Khoa
Để anh nhớ xem. Mẹ vẫn gọi là loài trên cạn em à. Tín hiệu mẹ cài trong đầu mình đó, em tìm lại xem. Gọi gì cũng được, mình cứ gọi theo tổ tiên thôi.
Xem thêm
Người của buôn làng - truyện ngắn của Phạm Minh Mẫn
Rút từ tập truyện ngắn GIẢI NOBEL THỨ BẢY của tác giả.
Xem thêm
Cô bé có đôi bàn tay kỳ diệu
Nguồn: Mẹ - tập truyện ngắn của Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, in năm 1997; trang 221.
Xem thêm
“Ông Ba Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
“ÔngBa Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
Xem thêm
Những trang sách cũ
Mẹ tôi kể là trong ngày sinh nhật đầu tiên, gia đình đã bày trước mắt tôi một cây bút, một quyển sách, một tờ giấy bạc, một chiếc hàn thử biểu và một cái muổng gỗ dùng để nấu ăn. Chọn thứ nào sẽ là dự báo tương lai cho cuộc đời tôi.
Xem thêm
Làng Nủ thân thương
Tác giả Bỉ Hao tên thật là Nguyễn Phúc Bảo Huy sinh năm 2007 (17 tuổi), tại Đăk Lăk. Hiện đang là học sinh Trường Trung học phổ thông Krông Bông. Em viết truyện ngắn, bút ký, tản văn và cả sáng tác thơ. Có thể nói các tác phẩm của em đang được ví như một viên ngọc nhỏ thô sơ còn cần thời gian gọt dũa, mài sáng, nhưng tôi tin rằng, trong thời gian tới, khi ở tuổi trưởng thành, em sẽ tiến bộ nhiều hơn nữa. Văn chương TP.HCM trân trọng giới thiệu tản văn Làng Nủ thân của Bỉ Hao đến với bạn đọc.
Xem thêm
Bạn cấp ba – Truyện ngắn của Nguyễn Văn Phúc
Phòng đã tắt hết đèn, ánh sáng từ điện thoại chiếu vào mặt tôi, hắt sáng tạo thành cái bóng hình đầu người in trên tường. Đây! “Carl Jung” của tôi đây rồi, tôi cười như một thằng dở người giữa buổi tối tĩnh mịch, hiu hiu gió và tiếng ve hở chút lại réo lên.
Xem thêm
Những ngày nông nỗi - Truyện ngắn Thúy Dung
Con tàu to lớn cập bến Sầm Sơn, (nay là cảng cá Lạch Hới, phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa), bước chân lên đất liền, Hiệp quá mệt mõi vì hành trình hơn một tuần lễ trên biển. Mặc dù chiếc tàu của Ba Lan rất to lớn nhưng lần đầu tiên ra biển quả là chới với, chưa hết hồi hộp. Cái cảnh tàu chồng chành, khi nó nghiêng bên phải, cả bạn con gái lăn qua, khi nghiêng bên trái, bọn con trai bị lăn lại thì say sóng là điều không tránh khỏi. Thậm chí, có vài em nhỏ sức yếu, không sống nổi khi lên được bờ.
Xem thêm
Đường vòng - Truyện ngắn
Nguồn: Để sống bình yên – tác giả Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Phụ nữ
Xem thêm
Nơi Bão Đi Qua - VOV
Truyện Bích Ngân
Xem thêm
Miền gió - Truyện ngắn của Viên Kiều Nga
Từ trong góc khuất, một tên khủng bố nhắm bắn Ngạn vì cho rằng cô là “con mồi” đơn độc, yếu ớt nhất và không có khả năng phản kháng. Hắn giương họng súng hướng về phía cô và bắt đầu lên đạn. Dường như có một dự cảm không lành, Hoàng đột nhiên lao tới. Anh đứng chắn ở phía trước và ôm chầm lấy Ngạn. Bất chợt có tiếng súng nổ ở cự ly rất gần. Mọi thứ diễn ra chỉ trong vài tích tắc.
Xem thêm
Con trâu - Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Con trâu đủng đỉnh bước. Bình minh Đồng Tháp Mười mát lạnh. Hương tràm, hương thảo mộc hòa với gió quyện hơi nước sông Vàm Cỏ Tây mát lạnh. Con Khỏe vơ vội mấy nhánh cỏ ven đường đẫm sương đêm.
Xem thêm
Lứa đôi - Truyện ngắn Lê Thanh Huệ
Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Xem thêm
“Bến nước” cơ quan | Truyện ngắn Lại Văn Long
Tôi đang đứng trước gương trong nhà tắm rộng rãi, ốp đá Italia cầu kỳ với la bô, bồn cầu, bồn tắm nhập từ Nhật Bản có bộ điều khiển điện tử và máy nghe nhạc cực chuẩn, để tự vấn.
Xem thêm