TIN TỨC

Sách nặng, hồn thanh nhẹ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-10-11 16:44:13
mail facebook google pos stwis
1568 lượt xem

PHẠM KHẢI

(Đọc "Quách Tấn - Tuyển tập thơ", Nxb Hội Nhà văn, 2006)

Có một hiện tượng tuy ít người nói ra song đã và đang trở nên phổ biến trong đời sống văn nghệ: ấy là việc một số tác giả rất được người đời biết tiếng nhưng khi hỏi đến tác phẩm thì đa phần lại chỉ nhớ… lơ mơ!

Tất nhiên, để xảy tình trạng này có nhiều lý do, trong đó có những lý do nằm ngoài phạm vi tài năng của chính tác giả.

Như bao người yêu thơ khác trên đời, tôi biết đến nhà thơ Quách Tấn chủ yếu nhờ vào phần được trích tuyển trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh- Hoài Chân. Từ bấy đến nay, đây đó trên báo chí tôi cũng được đọc thêm một số bài thơ nữa của ông, song xem ra sự tiếp xúc ấy cũng chỉ là “tạm bợ”.

Tôi hiểu, ngoài tôi còn không ít đồng nghiệp cũng chỉ biết về sự nghiệp thi ca của Quách Tấn một cách manh mún, hoàn toàn không tương xứng với sức nặng mà cái tên của ông đã gợi lên trong đời sống văn học mấy chục năm qua.

Cho đến một ngày, tôi và nhiều độc giả có được cuốn “Quách Tấn - tuyển tập thơ”…

Sinh thời, Quách Tấn bị xem là người “không có duyên trong việc xuất bản” nên việc phổ biến văn thơ của ông “rất hạn hẹp” (lời người biên soạn).

Bởi vậy, với độ dày ngót 800 trang in, tập hợp tới hơn 500 bài (tương đương với “Toàn tập thơ” của Xuân Diệu), lại được tuyển lựa từ tất cả các tập thơ đã hoàn tất của tác giả, ta có thể khẳng định ngay rằng, đây là hợp tuyển thơ đồ sộ nhất của Quách Tấn từ trước tới nay.

Bạn đọc tiếp tục được thưởng thức lại trong cuốn sách này những câu thơ hay, đầy mỹ cảm mà cả hai nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh đã từng tấm tắc ngợi khen như “Gió vàng cợt sóng sông chau mặt/ Mây trắng vờn cây núi bạc đầu/ Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy/ Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu” (bài “Cảm thu”) và “Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ/ Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ/ Sầu mang theo lệ khôn rơi lệ/ Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ…” (bài “Trơ trọi”).

Đặc biệt, có những thi phẩm mà tác giả của “Nhà văn hiện đại” và “Thi nhân Việt Nam” chỉ bình, trích đôi câu, bạn đọc sẽ được tiếp cận trọn bài trong cuốn tuyển thơ này.

Các tập “Một tấm lòng”, “Mùa cổ điển” (từng làm nên thương hiệu của tác giả thời kỳ trước Cách mạng) và “Đọng bóng chiều”, “Mộng Ngân Sơn”, “Giọt trăng” (giúp nhà thơ neo đậu tên tuổi trong lòng bạn đọc những ngày hai miền cắt chia) cùng một vài tập thơ lẻ xuất bản cách đây ít năm sẽ góp cho bạn đọc một cách nhìn tương đối hoàn chỉnh về chân dung nhà thơ Quách Tấn.

So với những bạn thơ của nhóm “Bàn Thành tứ hữu” (có nghĩa là “Bốn người bạn ở đất Thành Bàn”- tức Quy Nhơn), gồm Quách Tấn, Chế Lan Viên, Yến Lan và Hàn Mặc Tử thì Quách Tấn là người… thọ nhất (ông mất năm 1992, khi đã 83 tuổi).

Tuy nhiên, Quách Tấn cũng lại là người có phong cách ổn định, giọng thơ ít thay đổi hơn cả. Nếu như với Hàn Mặc Tử, từ những bài thơ Đường luật “ngay ngắn trang nghiêm” viết lúc còn thiếu niên đến những bài thơ đầy ngẫu hứng và tung phá trong “Máu thơm và hồn điên” là cả một diễn biến tâm lý phức tạp thì ở Quách Tấn không hề có hiện tượng như vậy.

Nếu như vào những năm ba mươi (của thế kỷ trước) ông từng viết: “Sương buông màn lượt phủ bao la/ Non nước chìm sâu trong giấc mơ/ Cung quế im lìm mây ấp nguyệt/ Song đào âu yếm gió hôn hoa” thì 50 năm sau, ông vẫn viết: “Sông sâu thắm đậm bóng non chiều/ Ăm ắp bờ lau ngập tiếng tiêu/ Thuyền ngược nước thu mây nặng nặng/ Sư về am vắng gió hiu hiu”.

Không ai nhìn thấy dấu vết thời gian giữa hai khổ thơ nói trên. Với Quách Tấn, thơ ca như một giấc mơ dài mà suốt cả một đời ông vẫn chưa qua hết.

Một đôi nhà phê bình cự phách đã nhận xét, trong việc làm thơ, Quách Tấn quá chú trọng tới việc gọt câu tỉa chữ. Họ cho rằng như vậy là “già nhân tạo, át thiên chân” và điều đó dẫn tới việc thơ Quách Tấn có thể “ngâm ngợi cho sướng tai” chứ ít có sức lay động tâm can.

Đọc “Quách Tấn - tuyển tập thơ”, tôi không hoàn toàn tán thành ý kiến trên song cũng nhận thấy rằng, với những thể thơ cũ như ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn bát cú, tứ tuyệt… (tác giả hầu hết chỉ dùng mấy thể thơ này) mà kéo dài cả tập tới 7-8 trăm trang quả là một sự “nắn gân” độc giả.

Tất nhiên, ta cũng cần phải hiểu, một nhà thơ dù tài ba đến đâu cũng khó mà trở thành “cây đàn muôn điệu” được. Khi sáng tác mỗi người một “tạng”. Vấn đề là làm sao khai thác được đến nơi đến chốn cái “tạng” của mình.

Trong “Quách Tấn - tuyển tập thơ”, còn có một phần rất có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu văn học sử, đó là những trích đoạn hồi ký của Quách Tấn cùng các bài tựa, bạt, đánh giá nhận xét của bạn bè, đồng nghiệp đối với sự nghiệp thơ ca của ông (phần này chiếm tới non nửa cuốn sách).

Thật thú vị khi ta được tiếp cận với Tản Đà qua bài tựa “Một tấm lòng”, với Hàn Mặc Tử qua lời bạt (cũng dùng cho tập thơ nói trên); với Chế Lan Viên qua lời tựa cho “Mùa cổ điển”…

Tất cả đều thể hiện một thái độ tôn trọng đối với những nỗ lực “làm mới lại các thể thơ cổ điển” của tác giả khi ấy tuổi đời còn trẻ. Chỉ tiếc là cũng ở phần “đọc thêm” này, người đọc đã gặp phải những hạt sạn. Ấy là khi người biên soạn đưa vào tập sách bài viết có tiêu đề “Trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam đối với Quách Tấn” của tác giả Phạm Công Thiện, với nhận định “Quách Tấn là thi hào vĩ đại nhất ở thế kỷ 20”.

Được biết, sinh thời Quách Tấn là người “biết người biết ta”, và ngay trong cuốn sách này ông cũng đã đưa ra tuyên bố: “Tôi được một chút địa vị tử tế trên đàn thơ là do “Mùa cổ điển” và nhờ công của Chế Lan Viên và Hoài Thanh”. Việc đặt những lời này của ông bên cạnh lời xưng tụng… bốc giời nói trên quả thật là hơi… phản cảm.

***
 

Nhà thơ Ngô Văn Phú: “Ông chơi thơ một cách sang trọng…”

- Là người có khuynh hướng… phục cổ, lại được tiếng “chịu đọc” các bậc tiền nhân, hẳn Quách Tấn cũng là trường hợp mà ông quan tâm?

+ Không chỉ quan tâm mà còn phải… học. Khi còn ngồi trên giảng đường đại học (hồi đầu những năm 60) tôi vẫn nghe các thầy nhắc đến tên Quách Tấn trong giáo trình. “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh chẳng đã chọn của ông rất nhiều, tới 9 bài, hơn cả Chế Lan Viên và Nguyễn Bính. Trong thơ ông này, “Mùa cổ điển” là tập tôi thích nhất.

- Ông có thể nhắc đến một số bài mà ông tâm đắc?

+ Không! Thơ ấy hơi… cổ, phải giở sách ra tôi mới nhớ được. Nhưng nói đến đội ngũ làm thơ Đường luật, không mấy người bén gót được ông đâu. Ông là mẫu nhà thơ tài tử, thích mới làm. Ông chơi thơ một cách sang trọng chứ không phải chơi tạp…

- Với tư cách một người làm nghề, ông có thể nhận định như vậy. Nhưng với tư cách độc giả thì ông thấy thế nào? Vì xem chừng thơ của ông và thơ cụ Quách cũng lại thuộc hai dòng khác nhau?

+ Nói thật, với tư cách độc giả mình cũng không thích lắm đâu. Mình trọng ông, quý ông vì có những câu “tử vì đạo”, nhưng thơ… cổ thế, cũng khó mà thích mãi được thật. Ngay cũng làm thơ Đường luật nhưng thơ Đường luật của Hàn Mặc Tử mình vẫn thích hơn vì nó mới hơn.

- Ông nghĩ thế nào về độ dày của tập sách. Theo người biên soạn cho biết, sắp tới sẽ xuất bản “Toàn tập thi ca Quách Tấn” gồm tới trên 2000 bài. Liệu số lượng như thế có hơi “quá” với sức tiếp nhận của độc giả không?

+ Ông Quách Giao, người biên soạn cuốn sách này là con trai cụ Quách Tấn nên ông muốn chọn cho thân phụ mình bao nhiêu bài là quyền của ông ấy, chúng ta nên tôn trọng. Nhưng theo tôi nghĩ nên khảo sát tâm lý độc giả để chọn lựa sao cho vừa. Nhất là với những người nổi tiếng như Quách Tấn thì việc chọn lựa càng phải kỹ càng hơn.
 

Nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng (Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định): “Đó là hồn xưa của Bình Định…”

- Là Chủ tịch Hội Văn nghệ của một tỉnh từng sản sinh ra các cây đại thụ của thi ca Việt Nam hiện đại như: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… ông có thể cho biết ảnh hưởng của Quách Tấn đối với anh em văn nghệ sĩ quê nhà và vị trí riêng biệt của ông so với các bậc cự phách nói trên?

+ Theo mình, tuy mỗi người mỗi vẻ nhưng đó đều là hồn xưa của Bình Định. Riêng với Quách Tấn, có thể nói đó là một nhân vật mà ở Bình Định nhắc tới là nhiều người biết. Ngoài thơ, ông còn được xem là một nhà văn hóa. Những cuốn biên khảo của ông như “Nước non Bình Định” là chiếc chìa khóa giúp du khách hiểu thêm về vùng đất này.

- Nhưng còn phần thơ? Liệu đến nay cụ Quách có rơi vào tình trạng để anh em trẻ phải “kính nhi viễn chi” không? Và cá nhân ông, ông có thường xuyên đọc lại thơ Quách Tấn và mỗi lần đọc có cảm thấy “mệt”?

+ Mình chưa bao giờ đọc thơ Quách Tấn mà cảm thấy mệt cả. Vả chăng, với thơ Quách Tấn, mình hiểu là không phải lúc nào đọc cũng “vào” và lúc nào cũng tiếp cận được. Nếu không có một tâm thế nào đấy thì không nên đọc lại.

Quách Tấn có đặc điểm là rất trung thành với một vài thể loại. Dường như ông chỉ viết cho chính mình mà ít để ý tới độc giả. Thơ Đường của ông hay nhưng mình cũng thích thơ lục bát của ông, như những câu sau: “Một mai ba tấc đất vùi/ Trần gian gửi lại nụ cười cho hoa”.

- Hẳn cuốn “Quách Tấn – tuyển tập thơ” là cuốn hợp tuyển qui mô nhất về thơ Quách Tấn từ trước tới nay. Vậy ít nhiều Hội Văn nghệ Bình Định có hỗ trợ gì không?

+ Thú thật, tuy nhà thơ Quách Tấn là cậu đằng vợ mình, nhưng đến nay mình cũng chỉ nghe nói chứ đã có cuốn này đâu. Anh Quách Giao hiện ở Nha Trang, sách anh ấy tự làm lấy hết. Về mặt tư liệu mình rất tin anh Giao vì anh ấy vốn là nhà nghiên cứu. Những di cảo của cha, anh ấy giữ rất cẩn thận. Giống như cụ thân sinh, anh ấy cũng có “máu biên khảo” mà.

(Báo Văn nghệ Công an số 162, ngày 20-8-2007).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm