TIN TỨC

Mỗi giọt máu như mặt trời

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-03 17:39:12
mail facebook google pos stwis
1800 lượt xem

 

Vũ Tuấn

Theo dòng ký ức, tôi nhớ lần đầu tiên đọc thơ của nhà thơ Võ Tấn Cường trên tập san Văn hóa Văn nghệ huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang năm 1988. Năm tôi bước vào học cấp ba, cũng là lúc tập tễnh làm thơ, mở tờ báo ra là tìm ngay trang thơ, thói quen này còn theo tôi đến giờ.


Nhà văn Võ Tấn Cường.

Bài thơ “Đêm đồng sen”, có hai câu kết dễ nhớ, vì nó đánh trúng tâm trạng tôi, năm đó tôi có một mối tình đầu vừa tan vỡ sau phút hào nhoáng ngây thơ của tuổi học trò, đã để lại tâm hồn mình dư âm buồn khôn xiết, một dư chấn yêu thương còn run rẩy như tờ giấy trắng lấm mực không cách gì bôi xóa…

Câu thơ như mối duyên nợ “chở khẳm” tình cảm của tôi và anh tới nay, chắc chắn còn “khẳm” thêm cho tình yêu thơ ca bao la về sau…

“Nếu vắng em đồng không trời trống
Xuồng anh chở khẳm nỗi niềm thương”

Đồng điệu về tâm trạng, câu thơ neo lại hồn tôi. Chính vì nó đã biến hóa tài tình thành chiếc xuồng ”tâm thức” chuyên chở nỗi nhớ niềm thương cho tất cả những ai đã yêu, đang yêu, sẽ yêu nên không bao giờ chìm khuất trong cái biển ngôn từ mênh mông ám ảnh. Lạ là chỉ một từ “khẳm” mà ấn tượng dai dẳng quá.

Và mấy chục năm sau chữ “khẳm” lại quay về trong thơ của Võ Tấn Cường, chuyên chở một cảm thức khác, không kém phần xa xót:

“Con tàu thời gian chở khẳm niềm đau
Miền giá lạnh đời em chờ anh ga cuối?”
(Thèm say)

Không chỉ chở nặng cảm xúc thơ, tâm hồn đa cảm của nhà thơ còn chở nặng bao nhiêu tình ý cuộc đời chất chứa trong hành trình sáng tạo, không bao giờ còn có thể kịp khai phá trên con tàu thời gian lao vùn vụt…

Thơ ca, hay chính xác là ngôn ngữ thơ ca có sức quyến rũ, cuốn hút kỳ lạ. Nó mê hoặc và làm thăng hoa cảm xúc người đọc, qua trái tim và ngòi bút như “cây gậy” quyền uy có khả năng “điều binh khiển tướng” của nhà thơ. Nó vượt thoát tầm kiểm soát, mang về cho nhà thơ những “thắng lợi” tinh thần ngoài mong đợi…

Qua nhà thơ Võ Tấn Cường tôi biết và làm quen nhiều nhà thơ đàn anh ở Mỹ Tho như: Lê Ái Siêm, Nguyễn Thạnh, La Quốc Tiến, Nguyễn Chi… Bây giờ, trong các anh có người đã gánh thơ thong dong về miền mây trắng… như La Quốc Tiến, Nguyễn Chi. Còn lại anh em làm thơ chúng tôi phải chịu “cuộc lưu đày xứ mộng” (“Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng”, tập tiểu luận phê bình của nhà thơ Võ Tấn Cường) không biết đến bao giờ?

Riêng nhà thơ Võ Tấn Cường là người luôn gần gũi, gắn bó, chia sẻ thân tình trao đổi nhiều về công việc sáng tác đối với tôi.

Tôi có đủ năm tập thơ của anh, từ tập đầu tay: “Cánh thời gian” đến tập thơ xuất bản gần đây là “Ru giọt máu” và hai tập tiểu luận phê bình anh tặng mỗi dịp xuất bản. Nếu chọn đọc để “khám phá cơ chế sáng tạo” như ý anh đã viết thì tôi chọn đọc cả hai mảng. Nếu chọn một để thưởng thức, tìm cái chất, cái vẻ đẹp nhân văn mang chiều sâu nội tâm thì tôi chọn thơ. Suy cho cùng, khám phá tâm hồn nhà thơ cũng không gì khác hơn là khám phá tác phẩm nhà thơ sáng tạo để dâng tặng cuộc đời…


Tập thơ “Ru giọt máu” của Võ Tấn Cường.

Có lần ghé thăm nhà văn Trang Thế Hy ở Bến Tre, ông nhắn nhủ đôi điều về công việc viết lách, tôi đã ghi vào sổ tay của tôi: ”Đừng ngại sự bắt chước, miễn là bắt chước có sáng tạo”. Đôi lúc, tôi cứ nghĩ theo cách của mình thật ra, công việc sáng tác với các nhà văn có thể nói là một sự bắt chước “vĩ đại”, nếu không bắt chước hiện thực cuộc đời, bắt chước cách nói, cách nghĩ của xã hội loài người, nhà văn có được bao nhiêu vốn sống để viết? Điều ₫ó nói lên rằng sức sống của ngôn ngữ thật kỳ lạ!

Ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ của thơ ca có lẽ giống triết lý “một trong tất cả, tất cả trong một” chăng? Ngôn ngữ là của chung nhưng ta lại có quyền xác lập một “bản quyền” bất khả xâm phạm khi sáng tạo nó theo cách riêng của mình? Nhà văn – anh “sáng tạo” đúng nghĩa được bao nhiêu phần trăm? Câu hỏi này luôn truy vấn tôi trong suốt quá trình làm thơ, để nhắc nhở mình “tỉnh táo” trước cơn say bốc đồng ngôn ngữ dễ ngộ nhận…

Một chữ “khẳm” khi đọc thơ của Võ Tấn Cường từ những ngày đầu biết yêu, tập tễnh làm thơ, rồi găm trong tiềm thức của mình, bất chợt một hôm nó bay vào câu thơ tôi đang viết:

“Mênh mang gió lộng sông Tiền
Ru say búp nõn giữa miền phù sa
Xuồng ai chở khẳm lời ca
Chòng chành giai điệu bay qua cánh đồng!”
(Giai điệu phù sa – Vũ Tuấn)

Nói vậy để thấy rằng sự cảm ứng đồng điệu trong ngôn ngữ thơ ca là có thật!

Với ý thức sáng tạo gần như thiên bẩm, nhà thơ Võ Tấn Cường không chấp nhận nép mình dù phải bay trên đôi ”Cánh thời gian”. Ngay từ tập thơ thứ hai: “Gọi xanh”, anh đã mở lối đi mạnh mẽ cho thơ bằng lối viết tự do, mới mẻ, hiện đại, mạnh dạn kiếm tìm thể nghiệm với cách viết không lặp lại. Nhất là tránh sa đà vào sự ru ngủ của vần điệu khuôn sáo giết chết thơ, đa phần các nhà thơ như vướng phải bẫy rập ngôn từ không cách nào thoát ra được trên hành trình sáng tạo của mình.

Nhưng phải công nhận một điều, ở chặng đầu này anh đã lập nên “kỳ tích” với bài thơ “Cha chơi cờ” từng đoạt giải nhì cuộc thi thơ Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong năm 1991.

Bài thơ viết theo thể ngũ ngôn truyền thống, khi đó được anh đọc nghe vài lần tôi đã thuộc. Đến giờ này anh đã in năm tập thơ, có nhiều bài thơ hay, tôi chưa thấy có bài thơ nào vượt qua và tỏa sáng hơn?! Tôi tin bài thơ này chính là điểm nhấn làm nên thương hiệu thơ Võ Tấn Cường. Bài thơ mượn hình ảnh cha chơi cờ để nói lên tâm trạng thời đại nhiều ẩn ý.

Nhà thơ, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài bình và phân tích rất hay, sâu sắc, tôi chỉ xin chép lại từ trí nhớ của mình ngõ hầu thêm lần gởi đến bạn đọc sự trọn vẹn của một bài thơ hay:

“Cha nhặt tờ lịch cũ
Cánh thời gian rụng rơi
Cha vấn điếu thuốc cũ
Thời gian cháy ngậm ngùi
Cha chơi trận cờ tàn
Đóng hai phe chiến bại
Tướng sĩ thiếu đường chạy
Xe pháo liều chống càn
Tàn trận tướng sĩ lật
Nằm lăn lóc góc nhà
Con tốt trong tay cha
Hóa người hùng cô độc
Cha dọn lòng chôn cất
Bao héo hon tuổi già
Cờ không thể giải mã
Nỗi tủi hờn đời cha.”

Như tất cả các nhà thơ của chúng ta, nhà thơ Võ Tấn Cường cũng “chuyên chế” một loại “biệt dược” đó là thơ tình. Thơ tình của nhà thơ Võ Tấn Cường ba phần đắm say hai phần tỉnh táo. Anh đưa người đọc vào mê lộ tình yêu bằng ngôn ngữ của con tim thiêm thiếp đắm say nhưng luôn được đánh thức bằng cây gậy quyền năng lý trí:

“Mắt em trời thẳm linh thiêng
Tôi bơi vượt thoát bóng đêm hãi hùng
Mắt em hố thẳm không cùng
Tôi rơi vào khoảng lạnh lùng trống không”.
(Mắt em)

Cái nhìn của nhà thơ thật khác lạ. Nếu như với người mình yêu thì đôi mắt là cửa sổ tâm hồn cho ta thả vào đó con thuyền tình ái nồng nàn như nhà thơ Lưu Trọng Lư viết:

“Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em”

Thì nhà thơ Võ Tấn Cường lại như người bơi lướt qua nhanh nhanh để vượt thoát sự cám dỗ ấy, rồi như người quá tỉnh táo anh dặn mình hãy cảnh giác với đôi mắt ấy!

Phải chăng thiên hướng nghệ thuật của nhà thơ phát lộ từ cái nhìn đó, nên khi viết về tình yêu anh vẫn còn “lạnh“ và lý trí hơn nữa:

“Em – giọt thủy ngân
Mang hình hài trái tim
Mang gương mặt diều hâu
Biến ảo
Phù phép
Vỡ nụ cười chan nước mắt”
(Chân dung thủy ngân)

Tâm thức nhà thơ là một loại mật ngữ vừa như đóng kín vừa như mở ra vô tận, ta vừa như nắm bắt trọn vẹn vừa như hụt hẫng, cảm giác mông lung đưa ta vào hành trình đồng sáng tạo với nhà thơ như không bao giờ kết thúc. Theo tôi, đó chính là sự thành công của nhà thơ. Bởi nếu ta truy vấn nhà thơ thì lúc ấy tác giả cũng chỉ còn biết cách trả lời ta bằng cách trỏ cho ta một lối đi khác nhiều mê hoặc hơn mà thôi…

“Ru người
Máu chảy về tim
Ru ngày êm ả
Ru đêm yên bình
Ru môi nồng thắm hồi sinh
Nụ hôn say đắm để dành mùa yêu
Ru người
Trọn giấc phiêu diêu
Lặng thinh giọt máu
Trăm điều bão giông…
Mơ hoang ru mặt trời hồng
Đẹp như giọt máu…bềnh bồng đáy tim”.
(Ru giọt máu)

Mơ hoang… Ôi! Cảm ơn phút mơ hoang phiêu hốt này, nhà thơ Võ Tấn Cường đã mang được ngọn lửa vũ trụ là mặt trời hồng vào trái tim mình. Thắp sáng con đường thơ, thắp sáng con đường tình, thắp lên trong ta niềm khát khao hy vọng…

Mỗi giọt máu là một mặt trời hồng. Tôi tin đây chính là thông điệp của nhà thơ Võ Tấn Cường gửi đến mọi người.Tôi tin đây là cánh cửa chính mở ra phía chân trời sáng tạo của thơ ca… “Ru giọt máu” là ẩn dụ nghệ thuật về niềm tin yêu cuộc đời, là bài ca lẽ sống cô đúc trong thể thơ lục bát ngắn gọn mà “trăm điều bão giông.” Bởi cuộc đời rộng lớn ngoài kia chỉ có hình tượng nghệ thuật đặc sắc mới có thể ôm chứa nổi, mới có thể cắt nghĩa được. Đấy là sức mạnh của ngôn từ, thăng hoa qua tâm thức sáng tạo của nhà thơ!

Tình yêu – thi ca – nghệ thuật của một nhà thơ chỉ có một bản chính. Bạn đọc khi tiếp cận có quyền nhân bản nó theo cách cảm, cách hiểu của mình. Không làm nó nhòe mờ mà còn làm phong phú thêm, thú vị thêm…

Tôi không rõ đường tình của nhà thơ Võ Tấn Cường nhưng đọc thơ anh, tôi tin anh trước “ải tình” – mà không mấy kẻ can đảm vượt qua – nhà thơ của chúng ta lại mỉm cười như nhìn rõ “chân tướng” đối phương?

Dù có thể đó không phải tâm trạng cá nhân anh, bởi khi sáng tạo nhà thơ đã hóa thân, tan chảy vào nhịp điệu sôi động của cuộc đời… Tôi vẫn cho đây là một góc nhìn đa diện về tình yêu, của một tâm hồn biết đặt con mắt tỉnh táo bên trái tim đa cảm. Không cần cảnh báo ai, chỉ cần cảnh giác với chính mình bằng con mắt quán sát tinh tế, chắc chắn trên đường đời, đường tình, đường thơ của nhà thơ Võ Tấn Cường ít va vấp và hy vọng anh sẽ về đích trong tâm thế bình yên vượt thoát.

V.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm