TIN TỨC

Tết ngày ấy

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
874 lượt xem

 

Ninh Giang Thu Cúc

Bao lâu rồi cứ vào những ngày năm cùng tháng tận trên đất khách quê người, những đứa con xa xứ lại quay quắt nhớ về quê mẹ, nhớ về một thuở “sen ngó đào tơ” tập tành đóng vai người nội trợ với những công việc nữ công gia chánh để trổ tài khéo tay hay làm với họ hàng gia tộc trong những ngày tết đến xuân về…

Ngày ấy, hẳn không ai trong chúng ta không trải qua cái tâm trạng hồi hộp chờ mong và bận rộn với muôn ngàn công việc.


Nhà thơ, nhà nghiên cứu Ninh Giang Thu Cúc.

Ngày ấy, cứ từ sau rằm tháng Chạp, khi chị em chúng tôi đã làm xong mứt và các loại bánh khô (măng, mận, bó, sen tán, phục linh, đậu xanh) là mợ tôi ngồi chia bánh mứt thành từng phần cộng thêm hương trầm do tiệm Hồng Phúc ở đường Phan Bội Châu sản xuất mà mợ đã đặt mua từ tháng trước. Những phần quà ấy là lễ vật mà tôi là “con bé” có bổn phận mang đi biếu (ở Huế còn gọi là đi kỉnh) các từ đường của bên nội và bên ngoại gọi là chút lòng thành dâng lên tổ tiên ôn mệ trong ba ngày tết để tỏ niềm hiếu kính của lớp lớp cháu con.

Với tuổi 16, tôi bỗng thấy mình như lớn lên và quan trọng chi lạ khi đứng khoanh tay thưa trình những lời mợ dặn với các bác, chú, o, dì. Tới nhà mô, tôi cũng nhận được những cái vuốt tóc thương yêu của các bà bác, bà mợ, bà dì với những lời khen:

– Con mau lớn hỉ, rứa là thím Ấm khỏe rồi, lo mà học hành đi nghe con…

Cứ thế, mỗi buổi chiều tôi đi đến 2, 3 nhà bà con và phải mất 15 buổi chiều như vậy mới xong công việc lễ nghĩa ấy. Tôi có máu đi lang thang cho nên rất thú vị với loại “công tác đặc biệt” này, nếu không thì dễ gì được phép ra khỏi nhà ngoại trừ giờ đi học.

Mợ tôi thường dạy con gái bằng một câu ví von tổng hợp:

Con gái đi cúi mặt xuống đất, về cất mặt lên trời, ăn tại phủ, ngủ tại công đường, ngoài giờ học là kim chỉ vá may, chớ con gái mà cứ đi xồng xộng ngoài đường là đồ hư.

Thú thiệt tôi có đầy ắp cái máu đi “xồng xộng”, cho nên cứ mong những dịp kỵ giỗ, lễ, tết để được đi xồng xộng hợp pháp. Bởi hồi ấy, tôi được cái mau mồm mau miệng nhất nhà, cái gì động chạm đến “ngoại giao” trừ tôi chẳng ai ham.

Tôi chúa ăn gian thì giờ, cứ làm thật nhanh những việc được giao xong là chạy đến nhà mấy đứa bạn cùng một tạng để “giao đầu dúm mỏ” lên kế hoạch cho một cuộc đi rong…

Trời tháng Chạp ở Huế với những chiều giáp Tết lạnh se sắt và mưa chỉ lay phay, năm đứa chúng tôi trong nhóm “ngũ quỷ” đứa nào túi áo măng-tô cũng đầy ắp bắp rang và mỗi đứa một chiếc hộp dẹp hình chữ nhật màu đỏ (hộp thuốc lá ba con mèo) hầu như là vật bất ly thân của bất cứ đứa học trò nào thuở ấy, trong đó đựng tất cả cái tủn mủn cần thiết, tất nhiên là phải có mấy đồng bạc. Chúng tôi lên chùa Thiên Mụ dựng xe dưới hai cây phượng bên bến đá, rồi nhảy từng bậc cấp và leo lên cầu thang chui vào gác chuông ngồi nhá bắp rang và bàn sôi nổi chương trình mấy ngày nghỉ tết. Chơi chán chê chúng tôi “hạ sơn” vào quán bánh bèo của o Lạc dưới chân chùa, mỗi đứa kêu một dĩa bánh vừa ăn vừa húp nước mắm xì xụp, vừa hít hà và mắt môi đỏ lựng bởi ngoài ớt chìa vôi do o Lạc xé sẵn trong nước mắm, mỗi đứa còn ra sau hè nhà o hái ớt chỉ thiên thi nhau ăn để khoe tài ăn ớt của mình. Sau những lần rong chơi như vậy thường là về nhà trễ giờ, vậy là tôi đi vòng ngõ sau thay vì đàng hoàng vô ngõ trước và “dõng dạc”:

– Thưa thầy mợ, con mới về…

Bây giờ nhớ lại những tháng ngày ấy, có khi tôi thút thít khóc hoài và nhớ vô cùng những ngày chuẩn bị đón mừng năm mới một thời thơ trẻ của gần hầu hết con gái thế hệ chúng tôi.

Xứ sở thân yêu ơi! Để đón mùa xuân sắp về, dọc hai bên đường từ chợ Kim Long lên đường mới để rẽ vào An Ninh Hạ có còn ngọt ngào mùi gừng luộc, gừng đang rim trên lò bay lãng đãng giữa không gian? Có còn mấy cô nữ sinh đạp xe đi xin lá gai ở các chùa về làm bánh ít đen và bẻ lá dừa làm bánh su sê như chúng tôi hồi ấy…

Dòng ký ức cứ cuồn cuộn trôi về với muôn ngàn kỷ niệm, có những kỷ niệm thật đơn sơ, như một dải đất màu mỡ bên triền sông với giàn mướp rợp hoa vàng hay một vạt cải nhà ai đang độ lên ngồng với những nụ hoa lấm tấm mà cứ mỗi lần từ phố đạp xe lên làng, lần nào tôi cũng suýt lao xe xuống cầu An Ninh Hạ bởi mải mê nhìn ngắm biền bãi dọc hai bờ:

Ký ức vàng hoa cải

Dọc triền sông quê hương

Lung linh chiều sương khói

Ôi! Mùa xuân yêu thương

Những mùa xuân yêu thương ấy chẳng bao giờ trở lại nhưng vẫn ấm áp hoài trong trí nhớ của bao đứa con xa…

Quy Nhơn trước thềm xuân 1971

N.G.T.C

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm
Người lính làm nên huyền thoại
Phải nói, Trần Ngọc Trác là một cây viết tâm huyết với đề tài truyền thống cách mạng. Gặp  ông cách nay đã vài chục năm, tôi vẫn nhớ dáng đi nhanh nhẹn, giọng nói trầm ấm và ánh nhìn thân thiện của nhà văn. Lúc ấy Trần Ngọc Trác là cán bộ của Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Lâm Đồng. Đã đọc Trần Ngọc Trác nhưng thực sự khi ông đảm nhiệm làm phim Người lính làm nên huyền thoại   về Đại tá Lê Kích (cậu ruột thứ Tám của vợ tôi), chúng tôi mới gắn bó  như anh em thân thiết. 
Xem thêm
Trúc Phương, người mà tôi muốn nói nhiều hơn những người khác
Bài phát biểu xúc động của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Anh hùng Võ Thị Sáu trong tâm thức người đang sống
Ký của nhà văn Trầm Hương trên báo Phụ Nữ Việt Nam
Xem thêm
Dân lo | Bút ký của Lê Thanh Huệ
Bài đăng báo Văn Nghệ số 30 (3309) ngày 29-7-2023
Xem thêm
Kỷ niệm về nhà văn Minh Khoa với Trần Thế Tuyển
Sau giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước(30-4-1975), từ Trung đoàn 174, tôi được điều về học tập và làm việc ở báo Quân khu 7. Vừa đặt ba lô trong tòa nhà kiến trúc kiểu Pháp tại căn cứ Trần Hưng Đạo, nơi đặt tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham mưu quân đội chế độ cũ, anh Mai Bá Thiện lúc đó phụ trách báo Quân khu 7 dẫn tôi ra mắt Phó phòng Tuyên huấn Quân khu - nhà văn Minh Khoa, lúc đó trực tiếp làm Tổng biên tập báo Quân khu 7. Từ lâu đã nghe danh nhà văn Minh Khoa với những truyện ký viết về Anh hùng, dũng sĩ diệt Mỹ, đặc biệt vở kịch Người ven đô với nhân vật Ông Tám Khỏe đậm đặc chất nông dân Nam Bộ, nay được gặp trực tiếp tác giả, tôi không khỏi bồi hồi, xúc động.
Xem thêm
Lòng tri ân luôn là giá trị bất bất biến
Bài đăng Tạp chí Linh khí Quốc gia kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh - liệt sĩ
Xem thêm
Mây trắng trong vườn chè ông nội | Tản văn của Trang Thanh
tôi hay nhớ những gương mặt người thân đã khuất bóng...
Xem thêm
Hoa biên cương: Nấm độc trên đất Tây Nguyên (Kỳ cuối)
Chúng tôi cũng dự nhiều cuộc họp ở các buôn làng Tây Nguyên, chứng kiến những người lầm lỡ vượt biên hay đi biểu tình gây rối được kiểm điểm trước các già làng và bà con trong buôn. Ai cũng cúi đầu xấu hổ, xin được tha thứ, hứa sẽ không tái phạm.
Xem thêm
Hoa biên cương: Lương y của buôn làng (kỳ 4)
Bút ký nhiều kỳ của nhà văn Lại Văn Long
Xem thêm
Hoa biên cương: Từ biên giới đến hải đảo (Kỳ 2)
Bảo vệ biên cương và tình hữu nghị
Xem thêm
Vọng âm buồn | Hoàng Phủ Ngọc Phan
Một loài chim có tiếng kêu nghe như Ơi đò Ca Cút
Xem thêm
Đêm Tháng Giêng - Tản văn Trần Bảo Trân
Ngày anh cưới chị, tôi còn nhỏ. Gần bảy thập kỷ trôi qua, tôi vẫn còn nhớ như in, ngôi nhà lợp rạ, vách đất của chúng tôi có khách là một người lính. Anh bận bộ quân phục màu cỏ úa với chiếc mũ mềm có ngôi sao lấp lánh. Ngày chị đi lấy chồng, tôi tiễn chị ra cánh đồng, cuối bờ tre gai thường ngày ríu rít tiếng chim. Cầm tay tôi, chị khóc. Em ở nhà nhé. Nếu rảnh chị sẽ về chơi với em. Mắt nhoà, tôi cố giữ không để lệ rơi.
Xem thêm