TIN TỨC

Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-11 23:53:46
mail facebook google pos stwis
1740 lượt xem

Nguyễn Văn Hòa

Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On

Tôi ôm tôi quấn tròn

nằm lăn ra làm thơ

khi nỗi buồn mặt trời còn giấu kín

khi em bảo thơ chẳng làm ra cơm áo

Bao nhiêu đời, họ ngẩn ngẩn ngơ ngơ

thơ rất đỗi bình thường

như người nông dân chân lấm tay bùn

trên cánh đồng thời vụ

như nhà bác học trăn trở

trước những phát minh

như lời khẩn cầu

mưa thuận gió hòa cho mùa

vung tay gieo hạt

để thành đạt những ước mơ

để chắp cánh cho thơ bay bổng

Tôi ẵm bồng

sinh sản những mùa đau.

Ở thời buổi này mà có người say đắm thơ như thế thì điều ấy thật đáng quý và đáng trân trọng. Vì thế, tôi đọc liền một mạch hết 40 bài trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On. 40 bài thơ trong tập sách được nhà thơ dành cả những tâm huyết, sự trăn trở của mình vào đó. Mỗi nơi anh qua, mỗi vùng đất anh đến, những gì anh nghe thấy, anh chứng kiến hay cả những dự cảm về mọi điều diễn ra trong đời sống đều được Nguyễn Tấn On ghi lại một cách chân thực, sinh động. Chính điều này đã tạo nên những dấu ấn nhất định đối với độc giả khi đọc thơ anh.

Điều thú vị và cũng là tín hiệu đáng mừng cho Tiết tấu thơ: đây là tập thơ song ngữ Việt - Anh. Tâp sách được dịch bởi dịch giả, nhà thơ Võ Thị Như Mai. Đó là yếu tố thuận lợi để thơ Nguyễn Tấn On có dịp để mở rộng đối tượng tiếp nhận và cũng là cơ hội tốt để thơ anh có sự lan tỏa.

Bao trùm trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On chủ yếu là giọng trầm, buồn. Ở đó thể hiện một cái tôi trữ tình yêu thương da diết, một cái tôi đầy suy tưởng về những điều hiện hữu, về quá khứ đã qua và cả những dự cảm về tương lai.

Cái hay ở thơ Nguyễn Tấn On là anh thường dùng những thủ pháp nghệ thuật: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hóa... một cách linh hoạt để chuyển tải những nỗi niềm một cách vi tế nhất.

Tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, ngay tên nhan đề bài thơ đã tạo nên sự ám gợi.

xuống phố/ dốc nghiêng vai chầm chậm/ gió phất phơ/ cành đào rụng lá trơ xương/ nhu nhú những nụ hoa vươn tới/ cơn mưa xõa tóc một làn hương/ mỏng mảnh phai mấy màu áo lụa/ trời nắng mưa trầm tích những vần mây/ xuống phố/ chạm cơn mưa nhè nhẹ/ chậm thế nào cũng vấp một tiếng rơi/ hàng cây cũ soi mặt hồ trong mới/ mưa ngọt ngào lún từng giọt thiết tha/ chiếc khẩu trang đi qua mùa dịch bệnh/ ấm áp nụ cười, bùi ngùi sẻ chia/ vết thương nào cũng thành sẹo/ nhưng cầu mong bệnh đừng trở nặng thêm// mùa giêng/ mưa nghiêng qua ô cửa/ nhà ai - mùi củi thơm tho/ bên lò sưởi mặn nồng/ nhón gót bên rào tường vy thấp thoáng/ tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa.

Thực tại đời sống có muôn vàn ẩn số, ám dụ, ẩn dụ nhưng bằng lôgic thông thường con người không giải mã được trọn vẹn. Vì thế, đôi lúc trong sáng tạo thi ca nhà thơ phải dùng biểu tượng. Biểu tượng: mặt trời, nắng, mưa, đêm, mùa thu, biểu tượng quê hương - đất nước... được Nguyễn Tấn On sử dụng trong thơ anh như là cách để giải thích, sáng tạo, tái sinh, liên tưởng trong sự kết hợp văn hóa, sự đa dạng của đời sống.

Đọc những câu thơ trong bài Người vẽ mùa thu gợi cho ta cảm giác thương nhớ ngút ngàn, sự hoang hoải, trống vắng, niềm tiếc thương và cả thái độ trân trọng. Quá khứ thương đau nhưng không thể nào tắt đi niềm tin yêu, hi vọng vào sự hồi sinh ở phía trước. Người đàn bà quên gương lược/ để tóc tự tình mưa gió vui...// Mùa thu về đâu?/ không có lá vàng chỉ có đàn kiến tha những sợi tơ mùa/ qua ngã tư, ngã năm vừa lắp đèn xanh, đèn đỏ/ về đồi cao làm tổ, chờ đông về ấp ủ tình yêu/ những khu phố không còn giăng dây - cách ly - chống dịch./ những hũ tro, cốt tẫn liệm/ bằng ký ức sẻ chia/ bằng tiếc thương/ trân trọng// Mặt trời lên/ người đàn bà vẽ mùa thu/ bằng âm thanh/ bằng ký tự/ bằng nhịp thở/ hồi sinh.

Một sự bất thường đã xảy ra: mùa thu không có lá vàng rơi rụng nhưng lại là mùa của những linh hồn ra đi vất vưởng, ai oán, nức nở khi chưa kịp giã biệt bất cứ điều gì...

Nắng quê nhà là bài thơ hay, để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc; bởi nhà thơ đã nói lên tiếng lòng thành thực của chính mình về quê nhà bằng tình yêu và nỗi nhớ trong trẻo, da diết.

Ta về tắm nắng nhà quê/ Cây rơm khuyết chỗ con bê rút ngày/ Rủ em về ngay - hôm nay/ Con chào mào hót rất hay em à// Cây ổi đỏ ruột vườn nhà/ Bánh xèo mẹ đổ nhân là nấm rơm/ Bếp quê chín lửa sôi cơm/ À ơi! Sợi khói, mùa thơm thảo về// Về nhe em, nắng nhà quê/ Thả diều, đánh vụ thích ghê gió đồng/ Về đây tập ta bơi sông/ Con chuồn chuồn cắn, hồng hồng đêm mơ.

Nhưng chắc chắn rằng đó chỉ là kỷ niệm, bởi bây giờ quê hương đã đổi khác, cảnh như lạ như quen càng làm cho đứa con “tha phương” trở lại thêm bùi ngùi.

Nhớ đến quê hương, nhà thơ còn nhớ đến hình ảnh của mẹ của cha đang mòn mỏi trong ngóng đứa con xa trở về thăm nhà. Trong tâm tưởng của một người đứng tuổi như Nguyễn Tấn On, không bao giờ anh nguôi quên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Vì thế dù trong bất cứ tình huống, hoàn cảnh nào nhà thơ cũng phải “Tìm về” chốn cũ. Đó là cách để cho lòng được an yên, là cách để xoa dịu những vết thương lòng, là cách hóa giải những ẩn ức đã và đang hiện hữu trong tâm hồn... Phải là người nặng lòng với quê hương, với những điều bình dị, gần gũi của quê nhà mới có thể viết lên những vần thơ da diết, chan chứa hoài niệm đến thế.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On có nhiều bài thơ viết về Sài Gòn, anh xem đó là thành phố cưu mang, thành phố nghĩa tình, thành phố mà ở đó gắn với bao nhiêu ký ức đẹp, không thể nào nguôi quên. Nhắc về Sài Gòn, nhớ về Sài Gòn đó cũng chính là lời cảm ơn chân thành nhất xuất phát tận trong đáy sâu tâm hồn anh. Nhất là trong những tháng ngày đại dịch Covid bao phủ, hoành hành. Nhiều bài thơ chắt lắng, đậm chất trữ tình về đất và người Sài Gòn được ra đời, tạo nên những tình cảm đặc biệt. Phố bệnh, Mưa người dưng, Sài Gòn – Ngày giãn cách, Thành phố hương của đời, Người và Đất, Thành phố cưu mang, Thành phố nghĩa tình...

Những tháng ngày Đại dịch covid tràn về, nỗi lo lắng bao trùm nhất là những nơi dịch bùng phát nhiều, nơi có con cháu, người thân yêu, bạn bè ở đó thì nỗi lo lại càng nhiều hơn gấp bội. Nguyễn Tấn On cũng có nỗi thấp thỏm của riêng anh, vì ở tận phố núi Đà Lạt, nhà thơ đang lo cho con đang ở vùng tâm dịch Sài Gòn.

Đà lạt - ngày đêm mưa rả rích/ Tỉ tê từng giọt buốt hiên nhà/ Âm ỉ - lo âu mùa dịch bệnh/ Đau lòng thương nhớ con xa// Đà lạt - Sài gòn bao thân thiết/ Hai nơi hai nỗi quê nhà/ Từng đoàn người rời Sài gòn lũ lượt/ Mong con về trong nỗi thiết tha (Thành phố cưu mang).

Nguyễn Tấn On có những bài thơ cô đọng, bật lên từ những cảm xúc bất chợt trong thời gian xảy ra Đại dịch Covid.  Con nhà thơ vẫn bám trụ ở Sài Gòn, không về Đà Lạt. Vì thế, khi nghe tin con bị F0, nhà thơ chết điếng vì quá lo lắng, bởi cái chết vì nhiễm bệnh ngày càng nhiều, không biết rồi sẽ có mệnh hệ gì với con?

Tin con dính F0, cả nhà mình chết điếng/ Ánh mắt buồn sũng ướt vấp vào nhau.

May thay, con anh đã vượt qua cơn hiểm họa. Đó là điều may mắn nhưng cái quan trọng hơn cả đó là nhờ vòng tay bao dung, chở che của Sài Gòn.

Sài gòn đổi thay/ con người không thay đổi/ vẫn hiền hòa hiếu khách, bao dung/ những thùng nước bên đường làm dịu cơn khát nắng./ những cây gạo ATM nghĩa tình/ ổ bánh mì ấm lòng người cơ nhỡ/ đĩa cơm hai ngàn không tính toán thiệt hơn.

Sài Gòn đổi thay trên các phương diện khác nhau của một thành phố năng động, đầu tàu về kinh tế của cả nước nhưng có một điều thật đáng quý đó là tình người, là sự bao dung, sẻ chia trước sau vẫn không hề thay đổi. Thậm chí mỗi ngày được hun đúc thêm, bồi đắp thêm. Họ không chỉ sống cho bản thân mình mà còn sẵn sàng làm những việc nhân nghĩa cho người, cho đời...

Mưa người dưng là một bài thơ mới đọc qua tưởng như tất cả là lời tự sự giản đơn của tác giả nhưng đọc kỹ lại thấy có nhiều điều trăn trở, nhiều thông điệp mà nhà thơ muốn ký gửi.

Sài gòn - mưa đầu mùa ập xuống/ Mưa ầm ầm - ào ạt/ Mưa - vội vã - dâng trào/ Mưa thì thầm chầm chậm/ Chảy về tôi/ Ký ức// Sài gòn - những trận mưa chiều thứ 7/ Người như sông trôi trên mặt đường/ Ngày lang thang/ Cơm bụi/ Cùng người/ Mưa - che chung dù hoa/ Mưa thắm tình áo trắng/ Mưa - ấm góc giảng đường/ Mưa - thương người - người dưng// Sài gòn mưa bay hàng me xanh phố/ Mưa êm - đềm/ Mưa - bao dung/ Mưa - sẻ chia/ Mưa - hạnh phúc/ Mưa - thành đôi/ Ơn - cơn mưa - người dưng.

Điệp khúc mưa trở đi trở lại liên tục (15 lần), mưa gắn liền với bao nhiêu sự việc, mưa trở thành một biểu tượng trùng phức, mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Đà Lạt, thành phố nơi Nguyễn Tấn On đang sinh sống cũng để lại trong anh tình cảm đặc biệt. Để rồi nhà thơ có sự so sánh rất đáng yêu, giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình về đất và người nơi đây. Anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt, một sự so sánh rất đặc biệt. Ở đây nỗi nhớ em được đặt ngang hàng với nỗi nhớ một thành phố núi nơi anh đang trú ngụ. Nỗi nhớ vừa trừu tượng, miên man, vừa hữu hình, cụ thể. Gắn liền với nỗi nhớ về em là những địa danh được nhà thơ nhắc đến, những đặc trưng về địa hình, khí hậu... có sự ảnh hưởng nhất định đến con người. Tình yêu và nỗi nhớ về em luôn hiện diện và đan cài trong tình yêu Đà Lạt. Bởi ở đó có quá nhiều những kỷ niệm!

Anh nhớ em như anh nhớ Đà lạt/ Nắng lạnh hai mùa áo khoác thân quen/ Vừa xuống đèo Prenn mà lòng đã nhớ/ Tháp Grand lycee ướt đẫm một màu trăng// Nỗi nhớ dùng dằng trên dốc Lê Đại Hành/ Ném chiếc khăn choàng vào đêm thứ bảy/ Lạnh run người mà em cứ dỗi hờn tôi/ Để sóng hồ Xuân Hương bối rối...

 

Con người trong thơ Nguyễn Tấn On là hiện diện của nỗi cô đơn, của sự khao khát khám phá, hướng đến những điều nhân bản, tốt đẹp. Ở đó, bạn đọc dễ nhận ra nhân vật trữ tình luôn tự tâm tình, đối thoại thông qua những hình ảnh, câu chữ, biểu tượng đầy ám gợi: phố tình thân, phố cưu mang, nắng quê nhà, nỗi buồn sủi tăm, mưa người dưng, tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt...

Ta nợ Em – Mùa Thu gợi ra nỗi niềm trăn trở của nhân vật trữ tình thông qua những hình ảnh liên tưởng tự nhiên nhưng đầy bất ngờ và thú vị. Một cách chuyển tải vô cùng hồn nhiên, thật đáng yêu, ở đó có cả sự e ngại, dại khờ vì không có chút gì toan tính thiệt hơn mà chỉ thuần khiết một tình yêu trong sáng.

Gặp em thuở chưa là hoa/ Chỉ là búp nụ giữa chồi lá non/ Trong vườn chim hót véo von/ Một vầng nguyệt bạch vừa tròn thanh tân// Gió không rung, cây tần ngần/ Tay cầm hoa cúc lòng phân vân tình/ Mấy bài thơ giữ riêng mình/ Rồi ta cứ thế lặng thinh lên đường// Buổi về qua ngõ đồi sương/ À ơi! Sợi nắng tỏ tường - lời ru/ Ta nợ em - một mùa thu/ Trăng buông cổ độ mịt mù vàng rơi.

Viết cho ai, viết về điều gì thơ Nguyễn Tấn On cũng tự nhiên, hồn hậu. Lời thơ chậm rãi, nhấn nhá kiểu như vừa đi vừa kể một câu chuyện nhưng rất đỗi chân thành. Sự chân thành ấy đã là bản chất, là cốt cách của một người làm thơ như Nguyễn Tấn On. Anh sống chan hòa, điềm đạm, luôn yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh anh, nhất là bạn bè và những người thân yêu ruột thịt.

Viết cho người bạn văn Nguyễn Thanh Đạm đã tạm biệt trần gian đi về cõi khác, Nguyễn Tấn On dành cho bạn bằng những lời nghẹn ngào, hụt hẫng: Bạn đi lật đật như uống rượu/ Chầm chậm thôi còn ngắm mây bay/ Bạn bè ngùi ngậm mưa như khóc/ Vợ con khăn trắng quấn heo may// Đà lạt mùa thu - mưa, không bão/ Sao lòng ta gió giật từng hồi?/ Đưa tay nâng chén còn đầy rượu/ Rưng rưng tưới xuống đất - vậy thôi!...// Giọng trầm âm ấm mềm như hát/ Nhớ bạn nhìn ly - buồn sủi tăm. Nguyễn Tấn On ví von một cách đầy hình tượng, nhà thơ gọi đó là “Nỗi buồn sủi tăm”.

Thơ Nguyễn Tấn On với những cảm xúc lắng đọng, mở ra không gian tâm tưởng đầy lãng mạn với những hình ảnh vừa gẫn gũi, giản dị nhưng đôi khi cũng mơ hồ, hư ảo đầy chất suy tưởng. Dù thơ anh đã tạo được vị thế nhất định trong lòng công chúng yêu thơ và sự đánh giá cao của những bạn bè, đồng nghiệp nhưng Nguyễn Tấn On vẫn rất mực khiêm tốn, với những lời rất đỗi chân thành, tha thiết: “Xin đừng gọi tôi - nhà thơ/ tôi chỉ gieo vần từ nỗi lòng thành hạt/ khi niềm vui, nỗi buồn tìm chút sẻ chia/ tôi ôm thơ vào lòng/ khao khát/ tiết tấu buồn trong tiếng vỗ tay vui”.

Nguyễn Tấn On cũng có một nguyện ước đáng để những người yêu thích và nghiên cứu văn chương suy ngẫm - khi anh đã ý thức một cách sâu sắc về cuộc đời, về thơ trong một cái nhìn đa diện, đa chiều. Để rồi, người thi sĩ Nguyễn Tấn On phải thốt lên lời tâm huyết, khẩn cầu: “Thơ ta xin thả lên trời”.

Những vần thơ cháy bỏng/ Khao khát và đam mê/ Bao bài thơ hoài niệm/ Một thời núi nghiêng vai// Đây bài thơ truyền thống/ Có cánh cò chiều đông/ Đây câu thơ hiện đại/ Thất tình em sang sông// Chiều cuối năm gặp bạn/ Bằng trường phái Đa đa/ Cắt dán chữ hảo hán/ Rượu chưa say nhớ nhà//... Thơ. Không có ranh giới/ Giữa lãnh thổ quốc gia/ Nhưng. Nhà thơ phải có/ Đất nước quê hương mình.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm