TIN TỨC

Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-11 23:53:46
mail facebook google pos stwis
1848 lượt xem

Nguyễn Văn Hòa

Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On

Tôi ôm tôi quấn tròn

nằm lăn ra làm thơ

khi nỗi buồn mặt trời còn giấu kín

khi em bảo thơ chẳng làm ra cơm áo

Bao nhiêu đời, họ ngẩn ngẩn ngơ ngơ

thơ rất đỗi bình thường

như người nông dân chân lấm tay bùn

trên cánh đồng thời vụ

như nhà bác học trăn trở

trước những phát minh

như lời khẩn cầu

mưa thuận gió hòa cho mùa

vung tay gieo hạt

để thành đạt những ước mơ

để chắp cánh cho thơ bay bổng

Tôi ẵm bồng

sinh sản những mùa đau.

Ở thời buổi này mà có người say đắm thơ như thế thì điều ấy thật đáng quý và đáng trân trọng. Vì thế, tôi đọc liền một mạch hết 40 bài trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On. 40 bài thơ trong tập sách được nhà thơ dành cả những tâm huyết, sự trăn trở của mình vào đó. Mỗi nơi anh qua, mỗi vùng đất anh đến, những gì anh nghe thấy, anh chứng kiến hay cả những dự cảm về mọi điều diễn ra trong đời sống đều được Nguyễn Tấn On ghi lại một cách chân thực, sinh động. Chính điều này đã tạo nên những dấu ấn nhất định đối với độc giả khi đọc thơ anh.

Điều thú vị và cũng là tín hiệu đáng mừng cho Tiết tấu thơ: đây là tập thơ song ngữ Việt - Anh. Tâp sách được dịch bởi dịch giả, nhà thơ Võ Thị Như Mai. Đó là yếu tố thuận lợi để thơ Nguyễn Tấn On có dịp để mở rộng đối tượng tiếp nhận và cũng là cơ hội tốt để thơ anh có sự lan tỏa.

Bao trùm trong Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On chủ yếu là giọng trầm, buồn. Ở đó thể hiện một cái tôi trữ tình yêu thương da diết, một cái tôi đầy suy tưởng về những điều hiện hữu, về quá khứ đã qua và cả những dự cảm về tương lai.

Cái hay ở thơ Nguyễn Tấn On là anh thường dùng những thủ pháp nghệ thuật: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hóa... một cách linh hoạt để chuyển tải những nỗi niềm một cách vi tế nhất.

Tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, ngay tên nhan đề bài thơ đã tạo nên sự ám gợi.

xuống phố/ dốc nghiêng vai chầm chậm/ gió phất phơ/ cành đào rụng lá trơ xương/ nhu nhú những nụ hoa vươn tới/ cơn mưa xõa tóc một làn hương/ mỏng mảnh phai mấy màu áo lụa/ trời nắng mưa trầm tích những vần mây/ xuống phố/ chạm cơn mưa nhè nhẹ/ chậm thế nào cũng vấp một tiếng rơi/ hàng cây cũ soi mặt hồ trong mới/ mưa ngọt ngào lún từng giọt thiết tha/ chiếc khẩu trang đi qua mùa dịch bệnh/ ấm áp nụ cười, bùi ngùi sẻ chia/ vết thương nào cũng thành sẹo/ nhưng cầu mong bệnh đừng trở nặng thêm// mùa giêng/ mưa nghiêng qua ô cửa/ nhà ai - mùi củi thơm tho/ bên lò sưởi mặn nồng/ nhón gót bên rào tường vy thấp thoáng/ tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa.

Thực tại đời sống có muôn vàn ẩn số, ám dụ, ẩn dụ nhưng bằng lôgic thông thường con người không giải mã được trọn vẹn. Vì thế, đôi lúc trong sáng tạo thi ca nhà thơ phải dùng biểu tượng. Biểu tượng: mặt trời, nắng, mưa, đêm, mùa thu, biểu tượng quê hương - đất nước... được Nguyễn Tấn On sử dụng trong thơ anh như là cách để giải thích, sáng tạo, tái sinh, liên tưởng trong sự kết hợp văn hóa, sự đa dạng của đời sống.

Đọc những câu thơ trong bài Người vẽ mùa thu gợi cho ta cảm giác thương nhớ ngút ngàn, sự hoang hoải, trống vắng, niềm tiếc thương và cả thái độ trân trọng. Quá khứ thương đau nhưng không thể nào tắt đi niềm tin yêu, hi vọng vào sự hồi sinh ở phía trước. Người đàn bà quên gương lược/ để tóc tự tình mưa gió vui...// Mùa thu về đâu?/ không có lá vàng chỉ có đàn kiến tha những sợi tơ mùa/ qua ngã tư, ngã năm vừa lắp đèn xanh, đèn đỏ/ về đồi cao làm tổ, chờ đông về ấp ủ tình yêu/ những khu phố không còn giăng dây - cách ly - chống dịch./ những hũ tro, cốt tẫn liệm/ bằng ký ức sẻ chia/ bằng tiếc thương/ trân trọng// Mặt trời lên/ người đàn bà vẽ mùa thu/ bằng âm thanh/ bằng ký tự/ bằng nhịp thở/ hồi sinh.

Một sự bất thường đã xảy ra: mùa thu không có lá vàng rơi rụng nhưng lại là mùa của những linh hồn ra đi vất vưởng, ai oán, nức nở khi chưa kịp giã biệt bất cứ điều gì...

Nắng quê nhà là bài thơ hay, để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc; bởi nhà thơ đã nói lên tiếng lòng thành thực của chính mình về quê nhà bằng tình yêu và nỗi nhớ trong trẻo, da diết.

Ta về tắm nắng nhà quê/ Cây rơm khuyết chỗ con bê rút ngày/ Rủ em về ngay - hôm nay/ Con chào mào hót rất hay em à// Cây ổi đỏ ruột vườn nhà/ Bánh xèo mẹ đổ nhân là nấm rơm/ Bếp quê chín lửa sôi cơm/ À ơi! Sợi khói, mùa thơm thảo về// Về nhe em, nắng nhà quê/ Thả diều, đánh vụ thích ghê gió đồng/ Về đây tập ta bơi sông/ Con chuồn chuồn cắn, hồng hồng đêm mơ.

Nhưng chắc chắn rằng đó chỉ là kỷ niệm, bởi bây giờ quê hương đã đổi khác, cảnh như lạ như quen càng làm cho đứa con “tha phương” trở lại thêm bùi ngùi.

Nhớ đến quê hương, nhà thơ còn nhớ đến hình ảnh của mẹ của cha đang mòn mỏi trong ngóng đứa con xa trở về thăm nhà. Trong tâm tưởng của một người đứng tuổi như Nguyễn Tấn On, không bao giờ anh nguôi quên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Vì thế dù trong bất cứ tình huống, hoàn cảnh nào nhà thơ cũng phải “Tìm về” chốn cũ. Đó là cách để cho lòng được an yên, là cách để xoa dịu những vết thương lòng, là cách hóa giải những ẩn ức đã và đang hiện hữu trong tâm hồn... Phải là người nặng lòng với quê hương, với những điều bình dị, gần gũi của quê nhà mới có thể viết lên những vần thơ da diết, chan chứa hoài niệm đến thế.

Nhà thơ Nguyễn Tấn On có nhiều bài thơ viết về Sài Gòn, anh xem đó là thành phố cưu mang, thành phố nghĩa tình, thành phố mà ở đó gắn với bao nhiêu ký ức đẹp, không thể nào nguôi quên. Nhắc về Sài Gòn, nhớ về Sài Gòn đó cũng chính là lời cảm ơn chân thành nhất xuất phát tận trong đáy sâu tâm hồn anh. Nhất là trong những tháng ngày đại dịch Covid bao phủ, hoành hành. Nhiều bài thơ chắt lắng, đậm chất trữ tình về đất và người Sài Gòn được ra đời, tạo nên những tình cảm đặc biệt. Phố bệnh, Mưa người dưng, Sài Gòn – Ngày giãn cách, Thành phố hương của đời, Người và Đất, Thành phố cưu mang, Thành phố nghĩa tình...

Những tháng ngày Đại dịch covid tràn về, nỗi lo lắng bao trùm nhất là những nơi dịch bùng phát nhiều, nơi có con cháu, người thân yêu, bạn bè ở đó thì nỗi lo lại càng nhiều hơn gấp bội. Nguyễn Tấn On cũng có nỗi thấp thỏm của riêng anh, vì ở tận phố núi Đà Lạt, nhà thơ đang lo cho con đang ở vùng tâm dịch Sài Gòn.

Đà lạt - ngày đêm mưa rả rích/ Tỉ tê từng giọt buốt hiên nhà/ Âm ỉ - lo âu mùa dịch bệnh/ Đau lòng thương nhớ con xa// Đà lạt - Sài gòn bao thân thiết/ Hai nơi hai nỗi quê nhà/ Từng đoàn người rời Sài gòn lũ lượt/ Mong con về trong nỗi thiết tha (Thành phố cưu mang).

Nguyễn Tấn On có những bài thơ cô đọng, bật lên từ những cảm xúc bất chợt trong thời gian xảy ra Đại dịch Covid.  Con nhà thơ vẫn bám trụ ở Sài Gòn, không về Đà Lạt. Vì thế, khi nghe tin con bị F0, nhà thơ chết điếng vì quá lo lắng, bởi cái chết vì nhiễm bệnh ngày càng nhiều, không biết rồi sẽ có mệnh hệ gì với con?

Tin con dính F0, cả nhà mình chết điếng/ Ánh mắt buồn sũng ướt vấp vào nhau.

May thay, con anh đã vượt qua cơn hiểm họa. Đó là điều may mắn nhưng cái quan trọng hơn cả đó là nhờ vòng tay bao dung, chở che của Sài Gòn.

Sài gòn đổi thay/ con người không thay đổi/ vẫn hiền hòa hiếu khách, bao dung/ những thùng nước bên đường làm dịu cơn khát nắng./ những cây gạo ATM nghĩa tình/ ổ bánh mì ấm lòng người cơ nhỡ/ đĩa cơm hai ngàn không tính toán thiệt hơn.

Sài Gòn đổi thay trên các phương diện khác nhau của một thành phố năng động, đầu tàu về kinh tế của cả nước nhưng có một điều thật đáng quý đó là tình người, là sự bao dung, sẻ chia trước sau vẫn không hề thay đổi. Thậm chí mỗi ngày được hun đúc thêm, bồi đắp thêm. Họ không chỉ sống cho bản thân mình mà còn sẵn sàng làm những việc nhân nghĩa cho người, cho đời...

Mưa người dưng là một bài thơ mới đọc qua tưởng như tất cả là lời tự sự giản đơn của tác giả nhưng đọc kỹ lại thấy có nhiều điều trăn trở, nhiều thông điệp mà nhà thơ muốn ký gửi.

Sài gòn - mưa đầu mùa ập xuống/ Mưa ầm ầm - ào ạt/ Mưa - vội vã - dâng trào/ Mưa thì thầm chầm chậm/ Chảy về tôi/ Ký ức// Sài gòn - những trận mưa chiều thứ 7/ Người như sông trôi trên mặt đường/ Ngày lang thang/ Cơm bụi/ Cùng người/ Mưa - che chung dù hoa/ Mưa thắm tình áo trắng/ Mưa - ấm góc giảng đường/ Mưa - thương người - người dưng// Sài gòn mưa bay hàng me xanh phố/ Mưa êm - đềm/ Mưa - bao dung/ Mưa - sẻ chia/ Mưa - hạnh phúc/ Mưa - thành đôi/ Ơn - cơn mưa - người dưng.

Điệp khúc mưa trở đi trở lại liên tục (15 lần), mưa gắn liền với bao nhiêu sự việc, mưa trở thành một biểu tượng trùng phức, mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Đà Lạt, thành phố nơi Nguyễn Tấn On đang sinh sống cũng để lại trong anh tình cảm đặc biệt. Để rồi nhà thơ có sự so sánh rất đáng yêu, giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình về đất và người nơi đây. Anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt, một sự so sánh rất đặc biệt. Ở đây nỗi nhớ em được đặt ngang hàng với nỗi nhớ một thành phố núi nơi anh đang trú ngụ. Nỗi nhớ vừa trừu tượng, miên man, vừa hữu hình, cụ thể. Gắn liền với nỗi nhớ về em là những địa danh được nhà thơ nhắc đến, những đặc trưng về địa hình, khí hậu... có sự ảnh hưởng nhất định đến con người. Tình yêu và nỗi nhớ về em luôn hiện diện và đan cài trong tình yêu Đà Lạt. Bởi ở đó có quá nhiều những kỷ niệm!

Anh nhớ em như anh nhớ Đà lạt/ Nắng lạnh hai mùa áo khoác thân quen/ Vừa xuống đèo Prenn mà lòng đã nhớ/ Tháp Grand lycee ướt đẫm một màu trăng// Nỗi nhớ dùng dằng trên dốc Lê Đại Hành/ Ném chiếc khăn choàng vào đêm thứ bảy/ Lạnh run người mà em cứ dỗi hờn tôi/ Để sóng hồ Xuân Hương bối rối...

 

Con người trong thơ Nguyễn Tấn On là hiện diện của nỗi cô đơn, của sự khao khát khám phá, hướng đến những điều nhân bản, tốt đẹp. Ở đó, bạn đọc dễ nhận ra nhân vật trữ tình luôn tự tâm tình, đối thoại thông qua những hình ảnh, câu chữ, biểu tượng đầy ám gợi: phố tình thân, phố cưu mang, nắng quê nhà, nỗi buồn sủi tăm, mưa người dưng, tiếng dương cầm tắm gội cùng mưa, anh nhớ em như anh nhớ Đà Lạt...

Ta nợ Em – Mùa Thu gợi ra nỗi niềm trăn trở của nhân vật trữ tình thông qua những hình ảnh liên tưởng tự nhiên nhưng đầy bất ngờ và thú vị. Một cách chuyển tải vô cùng hồn nhiên, thật đáng yêu, ở đó có cả sự e ngại, dại khờ vì không có chút gì toan tính thiệt hơn mà chỉ thuần khiết một tình yêu trong sáng.

Gặp em thuở chưa là hoa/ Chỉ là búp nụ giữa chồi lá non/ Trong vườn chim hót véo von/ Một vầng nguyệt bạch vừa tròn thanh tân// Gió không rung, cây tần ngần/ Tay cầm hoa cúc lòng phân vân tình/ Mấy bài thơ giữ riêng mình/ Rồi ta cứ thế lặng thinh lên đường// Buổi về qua ngõ đồi sương/ À ơi! Sợi nắng tỏ tường - lời ru/ Ta nợ em - một mùa thu/ Trăng buông cổ độ mịt mù vàng rơi.

Viết cho ai, viết về điều gì thơ Nguyễn Tấn On cũng tự nhiên, hồn hậu. Lời thơ chậm rãi, nhấn nhá kiểu như vừa đi vừa kể một câu chuyện nhưng rất đỗi chân thành. Sự chân thành ấy đã là bản chất, là cốt cách của một người làm thơ như Nguyễn Tấn On. Anh sống chan hòa, điềm đạm, luôn yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh anh, nhất là bạn bè và những người thân yêu ruột thịt.

Viết cho người bạn văn Nguyễn Thanh Đạm đã tạm biệt trần gian đi về cõi khác, Nguyễn Tấn On dành cho bạn bằng những lời nghẹn ngào, hụt hẫng: Bạn đi lật đật như uống rượu/ Chầm chậm thôi còn ngắm mây bay/ Bạn bè ngùi ngậm mưa như khóc/ Vợ con khăn trắng quấn heo may// Đà lạt mùa thu - mưa, không bão/ Sao lòng ta gió giật từng hồi?/ Đưa tay nâng chén còn đầy rượu/ Rưng rưng tưới xuống đất - vậy thôi!...// Giọng trầm âm ấm mềm như hát/ Nhớ bạn nhìn ly - buồn sủi tăm. Nguyễn Tấn On ví von một cách đầy hình tượng, nhà thơ gọi đó là “Nỗi buồn sủi tăm”.

Thơ Nguyễn Tấn On với những cảm xúc lắng đọng, mở ra không gian tâm tưởng đầy lãng mạn với những hình ảnh vừa gẫn gũi, giản dị nhưng đôi khi cũng mơ hồ, hư ảo đầy chất suy tưởng. Dù thơ anh đã tạo được vị thế nhất định trong lòng công chúng yêu thơ và sự đánh giá cao của những bạn bè, đồng nghiệp nhưng Nguyễn Tấn On vẫn rất mực khiêm tốn, với những lời rất đỗi chân thành, tha thiết: “Xin đừng gọi tôi - nhà thơ/ tôi chỉ gieo vần từ nỗi lòng thành hạt/ khi niềm vui, nỗi buồn tìm chút sẻ chia/ tôi ôm thơ vào lòng/ khao khát/ tiết tấu buồn trong tiếng vỗ tay vui”.

Nguyễn Tấn On cũng có một nguyện ước đáng để những người yêu thích và nghiên cứu văn chương suy ngẫm - khi anh đã ý thức một cách sâu sắc về cuộc đời, về thơ trong một cái nhìn đa diện, đa chiều. Để rồi, người thi sĩ Nguyễn Tấn On phải thốt lên lời tâm huyết, khẩn cầu: “Thơ ta xin thả lên trời”.

Những vần thơ cháy bỏng/ Khao khát và đam mê/ Bao bài thơ hoài niệm/ Một thời núi nghiêng vai// Đây bài thơ truyền thống/ Có cánh cò chiều đông/ Đây câu thơ hiện đại/ Thất tình em sang sông// Chiều cuối năm gặp bạn/ Bằng trường phái Đa đa/ Cắt dán chữ hảo hán/ Rượu chưa say nhớ nhà//... Thơ. Không có ranh giới/ Giữa lãnh thổ quốc gia/ Nhưng. Nhà thơ phải có/ Đất nước quê hương mình.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm