TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Thấy gì từ những tranh cãi vẫn đang bủa vây “Đất rừng phương Nam”?

Thấy gì từ những tranh cãi vẫn đang bủa vây “Đất rừng phương Nam”?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-10-31 07:30:45
mail facebook google pos stwis
3002 lượt xem

PGS.TS NGUYỄN THẾ KỶ

Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin được đăng tải bài viết của PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương quanh những tranh cãi về phim “Đất rừng phương Nam”.


Poster phim "Đất rừng phương Nam". Ảnh: Nhà sản xuất

Bài học từ “Đất rừng phương Nam”

Bộ phim “Đất rừng phương Nam” đến nay đã có doanh thu trên 123 tỉ đồng. Phim tạo ra được sức hút, dư luận sôi nổi, nhiều chiều, đó là điều đáng mừng. Nhất là trong giai đoạn chúng ta đang quan tâm xây dựng nền công nghiệp điện ảnh.

Tuy nhiên, phim cũng có những hạn chế, sai sót.

Đã có những tranh cãi xoay quanh việc “Đất rừng phương Nam” là phim lịch sử hay phim giải trí (theo đó, có nhiều người lại bàn thêm về quyền hư cấu hay yêu cầu/nguyên tắc phải tôn trọng lịch sử, tôn trọng hiện thực đời sống). Đây là những vấn đề lớn của văn học, nghệ thuật từ xưa đến nay và nhiều năm sau nữa.

Tôi thấy yếu tố giải trí của “Đất rừng phương Nam” nổi trội hơn yếu tố lịch sử, chính trị, nhưng không vì thế mà giới chuyên môn và người xem coi nhẹ hay bỏ qua nội dung lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán được thể hiện trong phim.

Về tính hư cấu, quyền hư cấu và tính chân thật của lịch sử, cứ nêu một câu hỏi, dù hơi kỳ, rằng, nếu nhà văn Đoàn Giỏi còn sống, liệu cụ có đồng ý để biên kịch, đạo diễn và ê-kíp làm phim đẩy thời khắc lịch sử, bối cảnh, nhân vật được phản ảnh trong tiểu thuyết của cụ lên trước 1925-1930 năm hay không? Thời điểm này, nhà văn Đoàn Giỏi mới chỉ 5 tuổi (Đoàn Giỏi sinh năm 1925).

Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” dù sử dụng nghệ thuật hư cấu, đã lấy mốc thời gian chính xác từ ngày 23.9.1945 trở đi - ngày Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2.

Dù là phim giải trí, dù đạo diễn và ê kíp có quyền hư cấu cao đến đâu chăng nữa, cái quyền đó liệu có lợi gì hơn cho họ trong sáng tạo nghệ thuật?


PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương. Ảnh: Thông tấn xã VN

Nếu muốn hư cấu nhiều hơn, nếu chỉ là "lấy cảm hứng" từ tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi, tại sao đạo diễn, biên kịch và ê kíp làm phim phải lấy nguyên tên tiểu thuyết? Vì sao phải lấy tên và hình tượng, hành động, tính cách các nhân vật trong tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” như cậu bé An, thằng Cò, bé Xinh…?

Hai tổ chức "Thiên Địa hội" và "Nghĩa Hòa đoàn” sau khi gây ồn ào, nhà làm phim đã sửa lại là "Chính Nghĩa hội" và "Nam Hòa đoàn".

Tôi nghĩ, đoàn phim không nên vin vào lý do "gia đình, người thân nhà văn Đoàn Giỏi rất hài lòng với bộ phim", nói như thế là khiên cưỡng và võ đoán. Gia đình người thân tác giả khác với tác giả - người dứt ruột sinh thành nên tác phẩm.

Tôi cũng là người viết nhiều tác phẩm văn chương, kịch bản sân khấu, đã từng bàn với đạo diễn rất kỹ nhân vật nào, tình tiết nào là quyền đạo diễn hư cấu, “tung tẩy” và nhân vật nào, tình tiết nào tác giả kịch bản cần phải giữ nguyên.

Tất cả đều có lý do, việc yêu cầu giữ nguyên như trong kịch bản, chắc chắn liên quan đến nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử.

Một số băn khoăn khác về bộ phim “Đất rừng phương Nam”, ví dụ như cảnh quay chợ nổi miền Tây trong phim thời đó (dù trước năm 1945 hay những năm sau đó) là quá đẹp, quá sạch sẽ, quá yên ả; trang phục của các nhân vật cũng gây ra những băn khoăn, thắc mắc, có phải họ là người dân Nam Bộ không?

Người Hoa ở Việt Nam là một bộ phận máu thịt của Tổ quốc Việt Nam, điều này không cần bàn cãi.

Nhưng vai trò của người Hoa trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm dù là thập niên hai mươi, ba mươi hay bốn mươi, năm mươi của thế kỷ trước ở Nam Bộ chưa hẳn đậm nét, thậm chí được tô hồng như trong phim.

Lịch sử phải được tôn trọng, phải thể hiện như đã xảy ra, và chúng ta không được phép “bài” ai, bênh ai.
 

Cơ quan cấp phép cần nâng cao năng lực, trách nhiệm

Công tác quản lý nhà nước về điện ảnh cũng cần đổi mới, nâng cao, nhất là năng lực, trách nhiệm của cán bộ Cục Điện ảnh.


“Đất rừng phương Nam” vẫn gây tranh cãi. Ảnh: Nhà sản xuất

Việc biên tập phim cần người am hiểu về lịch sử, văn hoá, xã hội; việc thẩm định và cấp phép cho phim cần khoa học, rành mạch và chuyên nghiệp hơn.

Cục Điện ảnh cấp phép cho phim “Đất rừng phương Nam” ra rạp rồi, sau đó, dư luận có ý kiến chỗ này, chỗ kia thì lại vội vàng yêu cầu nhà sản xuất và nhà phát hành chỉnh sửa.

Rõ ràng phim đã được thẩm định, cấp phép nhưng dường như sai lỗi sai chỉ ở phía nhà làm phim, còn Cục Điện ảnh vô can?

Khi phim đã chỉnh sửa xong, lẽ ra phải cấp phép lại cho bản đã chỉnh sửa theo quy định của Luật Điện ảnh nhưng điều này đã không diễn ra (hoặc chưa diễn ra?!). Làm như vậy là không công bằng, không rành mạch, thiếu nghiêm túc, từ đó đẩy dư luận nóng lên, phức tạp hơn.
 

Văn hóa phê bình

Cuối cùng, trong hoạt động văn học, nghệ thuật, dù là người sáng tác, sáng tạo; người làm công tác lý luận, phê bình hay truyền thông, quảng bá (kể cả người xem phim), chúng ta cần trang bị cho mình tư duy, phương pháp và thái độ khách quan, bình tĩnh, dân chủ, nhân văn.

Phim truyện “Đất rừng phương Nam” đã có những nỗ lực, thành công nhất định và cả những hạn chế, thiếu sót cần nhận rõ để rút ra bài học, cho “phần tiếp theo” của phim như ý định của nhà sản xuất.

Chúng ta đang đi những bước đầu của công cuộc xây dựng nền công nghiệp văn hóa, trong đó có công nghiệp điện ảnh.

Việc góp ý, phản biện hay khích lệ, cổ vũ cho một tác phẩm, công trình, sản phẩm văn hóa là rất cần thiết; nếu vội vàng thoá mạ, quy chụp một cách nóng nảy, võ đoán có lẽ là không nên.

“Nhân bất thập toàn”, nhiều tác phẩm điện ảnh, sân khấu nổi tiếng của thế giới, thậm chí “bom tấn” của Hollywood, cũng có không ít hạt sạn.

Họ cũng khen chê đâu ra đấy và nền công nghiệp điện ảnh, sân khấu của họ đã có những bước đi dài, ngoạn mục.

Nguồn: Lao Động.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm