TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Thi ca đương đại nhìn từ hệ hình nghệ thuật và chất suy tưởng của thơ

Thi ca đương đại nhìn từ hệ hình nghệ thuật và chất suy tưởng của thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-02-19 16:33:02
mail facebook google pos stwis
340 lượt xem

- Sáng ngày 12.02.2025 tại Ninh Bình, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ”. Dưới đây là tham luận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.

Cách đây 90 năm, cuộc tranh luận văn chương vang bóng một thời từng được mệnh danh giữa trường phái “nghệ thuật vị nhân sinh” do nhà văn Hải Triều làm chủ soái và trường phái “nghệ thuật thuật vị nghệ thuật” do nhà văn Hoài Thanh làm chủ tướng đã diễn ra trong các năm từ 1935 đến 1939 với nhiều ý kiến trái chiều nhau. Cho đến hôm nay, sau gần một thế kỷ, các nhà văn chúng ta với những cách tân về văn chương vẫn hướng đến sự đổi mới cả về hình thức nghệ thuật và nội dung nhân sinh trong các tác phẩm của mình. Trong đó, trách nhiệm của nhà văn trước đời sống xã hội và trách nhiệm trước văn chương nghệ thuật vẫn đang được đặt ra như một thách thức lớn đối với mỗi người viết.

Tôi cho rằng, các nhà thơ đổi mới đích thực hôm nay đang có những cách tân được dư luận chú ý là những nhà thơ đã biết cách giữ được đặc thù của ngôn- ngữ -thơ trong chuyển động đổi mới của những con chữ với các xu hướng tìm tòi nhằm nâng cao vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ bằng những ý tưởng mới, suy tưởng mới.

Những con-chữ-thơ cần một đời sống tư tưởng sâu sắc

Có thể nói trong 50 năm qua (1975-2025), các nhà thơ đương đại đã làm chúng ta ngạc nhiên về hệ hình tư duy thẩm mỹ mới và hiện đại. Thơ của họ đã vượt thoát khỏi những khuôn sáo ước lệ của vần điệu để thắp lên những hình tượng thơ mới. Không gian thơ được mở rộng hơn, mở sâu hơn, với tới các chiều kích của những suy tưởng lớn mang tính khái quát cao. Và, trong trường- thẩm -mỹ này, những vấn đề tưởng chừng lớn lao lại được khái quát lên từ những cái rất tầm thường, nhỏ bé của đời sống quê hương máu thịt hàng ngày.

Có một số nhà thơ hôm nay đang hướng đến cách tiếp cận tư duy thơ hiện đại theo kiểu lập trình những suy tưởng mới, những ý tưởng mới để làm thay đổi nội dung trình hiện của các bài thơ, để làm cho những con-chữ-thơ có một đời sống tư tưởng sâu sắc hơn, đa nghĩa hơn, giầu hàm lượng tri thức hơn. Và phải chăng, đây cũng là một hướng cách tân của thơ đương đại, khi một số nhà thơ đang xem trọng sự đổi mới về “chất suy tưởng” của nội dung thơ hơn là sự đổi mới về mặt hình thức nghệ thuật câu chữ trong thơ.

Theo tôi, bản chất của sự cách tân và đổi mới thơ hôm nay không chỉ nằm ở sự tìm tòi về mặt hình thức nghệ thuật cấu trúc của ngôn ngữ thơ mà điều thiết yếu căn cốt là ở sự đổi mới nội dung đời sống được phản ánh trong thơ. Trong rất nhiều thế kỷ qua, các trường phái thơ lớn trên thế giới qua mỗi thời kỳ đều hướng tới sự tìm tòi và cách tân thơ. Điều khác biệt (và khu biệt nhất) để có thể nhận ra được các nhà thơ cách tân của mỗi thời đại có gương- mặt- thơ khác nhau như thế nào chính là ở nội dung đời sống trong thơ họ ở thời đại ấy đã được phản ánh, khắc hoạ trong một trường- thẩm- mỹ nào.

Cách đây hơn hai chục năm, vào năm 2003, trong một cuộc hội thảo về “Thơ Việt Nam đi về đâu?” được tổ chức ở Hà Nội, tôi đã tham luận bằng bài thơ “Thơ hôm nay đi về đâu?” như sau:

Thưa mẹ/ Ba mươi ba năm trước/ Tiễn con đi từ ga Hàng Cỏ/ Mẹ về/ Nước mắt dọc đường Nam Bộ/ Đứt từng khúc tàu đêm// Ba mươi ba năm sau/ Ga không còn Hàng Cỏ/ Phố không còn Nam Bộ/ Con của mẹ/ Vẫn mãi mười tám tuổi/ Như chuyến tầu ngày ấy không về// Mẹ ở lại một mình/ Không phố/ Không ga/ Không tất cả/ Còn gì để nhớ/ Ga Hàng Cỏ dọc đường Nam Bộ// Thưa mẹ/ Hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu/ Trong con vẫn còn một chuyến tầu/ Ba mươi ba năm trước chưa trở về/ Phải chăng vì thế/ Những câu thơ bây giờ/ Vẫn phải lên đường/ Làm một cuộc ra đi. (thơ Nguyễn Việt Chiến)

Tôi nghĩ, sau mỗi cuộc hội thảo về thi ca, các nhà thơ với những câu thơ của mình, vẫn cần phải lên đường, làm một cuộc ra đi thật sự cho những sáng tạo mới. Và có thể nói, với những xu hướng cách tân tích cực và đích thực của các nhà thơ thuộc thế hệ Thơ Hậu chiến trong 50 năm qua (1975-2015),thơ đương đại Việt Nam đã khởi hành sang một chặng đường mới. Họ có thể chưa được dư luận và giới phê bình đánh giá một cách đầy đủ và công bằng. Nhưng tôi tin ở thời gian – thứ thước đo sòng phẳng nhất đối với mọi giá trị sáng tạo, sẽ ghi nhớ họ khi các nhà thơ đương đại đã làm chúng ta ngạc nhiên về những tư duy thẩm mỹ mới và hiện đại.

Quang cảnh tọa đàm “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ” ngày 12.02.2025 tại Ninh Bình

Những dạng thức mới của ngôn ngữ thơ

Theo tôi, cái mới trong thơ nhiều khi không cần đến sự trình diễn cầu kỳ bằng một hình tượng lạ, một cấu trúc lạ, một biểu đạt lạ mà điều nó hướng tới phải là một phát hiện mới về tính suy tưởng của thơ. Thời gian trước đây tôi cho rằng, thơ hay (giống như một tấm gương phản chiếu) là loại thơ soi vào thấy mình, thấy cuộc sống con người hiện lên sinh động với các chiều kích khác nhau ở trong đó, còn thơ dở thì có soi vào mãi cũng không thấy gì. Còn thời gian gần đây tôi lại nhận ra rằng, thơ hay là thứ thơ làm cho người ta phải kinh ngạc và thật sự rung động bởi một ý tưởng mới, một suy tưởng mới, một sức sống mới đang làm nên những dạng thức mới của ngôn ngữ thơ.

Các nhà thơ hôm nay đã mang lại những phát hiện mới, có giá trị khắc hoạ bằng ngôn ngữ của thơ, nỗi đau của những phận người- cái mà chỉ ít năm trước đây, không ít người làm thơ còn né tránh. Họ đã chạm được vào cõi sâu của tâm hồn, không chỉ bằng sự phá vỡ sắc cạnh của lý trí mà còn bằng cảm xúc của trái tim, điều đó làm cho người đọc thấy gần gũi và đồng cảm với nhà thơ, khi độc giả không bị áp đặt bởi một chủ thể ngôn ngữ có ý định mà được tham dự cùng tác giả vào những cảm xúc được tái hiện từ cái chất liệu đời thường còn rớm máu và khó nhọc này.

Thật ra, thơ hay có những tiêu chí gì, chuẩn mực gì vẫn là chuyện muôn đời xưa nay còn phải bàn cãi, vì cái hay đối với lớp người này (ở thời điểm này) chưa chắc đã là hay đối với lớp người khác (ở thời điểm khác) và ngược lại. Nhưng có một điều dễ nhận ra, thơ hay là thứ thơ còn đọng lại được qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, bởi thời gian là thước đo sòng phẳng nhất đối với mọi giá trị sáng tạo đích thực của nghệ thuật văn chương.

Nếu chúng ta coi mỗi bài thơ là một ngôi nhà thì vật liệu xây cất nên ngôi nhà thơ ấy phải bao gồm các vật liệu-thi liệu sau: cảm xúc thơ, hình ảnh thơ, nhạc điệu thơ, ý tưởng thơ, hình tượng thơ, tứ thơ, liên tưởng thơ, suy tưởng thơ. Theo tôi, một vấn đề quan trọng có thể coi là căn cốt nhất trong việc sáng tạo thi ca chính là việc phát hiện, xây dựng các tứ thơ cho mỗi bài thơ. Tứ thơ là một khái niệm quen thuộc trong thi học từ xưa đến nay được nhiều người làm thơ quan tâm đến. Có nhiều nhà thơ cho rằng: Tứ thơ là xương sống, là trụ cột của bài thơ, là cái nhân lõi trung tâm của bài thơ, là cách cấu trúc các ý thơ theo một chủ đề, là cách liên kết sắp xếp mọi yếu tố cấu thành của bài thơ; tứ thơ là một khung kết cấu, trong đó mạch thơ vận động từ khởi đầu, phát triển đến kết thúc; mỗi bài thơ có một chủ đích nghệ thuật và tứ thơ dẫn dắt, tổ chức mạch thơ hướng đến các chủ đích nghệ thuật đó; và tứ thơ liên quan đến hiệu quả thẩm mỹ của bài thơ và làm nên chất thơ chủ yếu của một văn bản nghệ thuật ngôn từ.

Tôi cho rằng, nếu coi mỗi bài thơ là một ngôi nhà thì đường nét kiến trúc của ngôi nhà ấy chính là tứ thơ. Điều này làm nên sự khác biệt độc đáo của mỗi một văn bản thơ vì bài thơ hay thường xuất phát từ những tứ thơ hay và độc đáo. Vì thơ là một loại hình sáng tạo nghệ thuật nên nhà thơ được coi như một kiến trúc sư của tâm hồn. Bởi thế nhà thơ không chỉ cấu trúc đặt ngôi nhà thơ của mình lên trang viết mà anh ta (hoặc chị ta) phải đặt ngôi nhà thơ này vào tâm hồn người đọc, vào trái tim, vào suy nghĩ của độc giả. Vì tứ thơ là hình tượng nghệ thuật xuyên suốt bài thơ nên tứ thơ chính là quá trình cấu tứ bằng hoạt động của tư duy để sáng tạo hình tượng nghệ thuật. Khi đó, nhà thơ dùng tư duy thơ để cắt nghĩa, lý giải, khái quát hiện tượng đời sống bằng một hình tượng tổng quát có sức chi phối toàn bộ sự cảm thụ, suy tưởng và miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm và bằng cả những ẩn dụ nghệ thuật.

Với tôi, tứ thơ chính là sự kết hợp hài hòa của các trạng thái hưng phấn trong sáng tạo thi ca như: cảm xúc, nghĩ suy và trí tưởng tượng. Nếu coi mỗi bài thơ là một sinh thể thi ca, ta sẽ nhận thấy: Cảm xúc chính là phần da thịt tươi mới, màu mỡ, sống động của sinh thể thơ; Ý tưởng là phần xương cốt tư duy vững chắc của sinh thể thơ; còn Tứ thơ chính là cái hồn của sinh thể thơ ấy. Từ nhận định này, trong hành trình sáng tác mỗi bài thơ, ta sẽ có một tam- giác –thơ bao gồm 3 đỉnh: da thịt của cảm xúc thơ, xương cốt của ý tưởng thơ và cái hồn của tứ thơ. Từ 3 yếu tố này, ta thấy nếu một bài thơ chỉ có da thịt của cảm xúc thơ mà không có xương cốt của ý tưởng thơ và cái hồn của tứ thơ (hoặc ngược lại chỉ có xương cốt của ý tưởng mà thiếu phần da thịt của cảm xúc) thì bài thơ ấy là một sinh thể thơ mờ nhạt, lỏng lẻo, èo uột, hời hợt và thiếu sức sống thi ca. Vì thế, chí ít một bài thơ đích thực, trước tiên phải có đủ 3 yếu tố: cảm xúc, ý tưởng và tứ thơ theo tam-giác-thơ nói trên.

NGUYỄN VIỆT CHIẾN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm