TIN TỨC

Tình yêu bển đảo trong thơ Lê Tiến Lợi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-01-27 21:10:21
mail facebook google pos stwis
749 lượt xem

Nhà thơ Lê Tiến Mợi là một trong những người gắn bó lâu năm với nghiệp văn chương. Anh đã có số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó một số sáng tác của anh đã chiếm được cảm tình của người đọc. Sau đây xin trân trọng gửi tới Ban Biên tập Văn chương thành phố Hồ Chí Minh bài viết về tình yêu biển đảo trong thơ anh. Xin chân thành cảm ơn Ban Biên tập khi được cộng tác với Văn chương thành phố Hồ Chí Minh.

Nhà thơ Lê Tiến Mợi

Một ngày cuối thu, tôi ghé thăm nhà thơ Lê Tiến Mợi tại ngôi nhà riêng của anh trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Quê gốc là Thạch Hà, Hà Tĩnh nhưng sớm chọn vùng đất phương Nam làm nơi lập nghiệp, Lê Tiến Mợi đã có gần 35 năm là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương. Sau vài câu chuyện hàn huyên, anh dẫn tôi lên thư phòng ở tầng hai. Vừa bước vào phòng, tôi bị thu hút bởi bên cạnh bàn viết là tủ sách bày các tác phẩm của anh, với 9 tập in chung và 13 tập in riêng, trong đó có 9 tập thơ.

Lê Tiến Mợi sinh ra trong một gia đình có nguồn gốc nhà nho yêu nước, nhiều đời tham gia cách mạng. Bà nội anh từng tham gia phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, bị địch bắt, giam cầm và mất trong tù, được Bác Hồ truy tặng Kỷ niệm chương. Ông nội anh là cơ sở nuôi dấu cán bộ của Đảng, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng bằng Có công với nước. Bố anh có hơn 50 năm cống hiến tài sức cho cách mạng, được Đảng, Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương. Anh ruột anh chiến đấu, hy sinh ở Thành Cổ Quảng Trị. Truyền thống cao đẹp của gia đình đã sớm hun đúc trong anh những phẩm chất đáng quý. Từ nhỏ, Lê Tiến Mợi đã thể hiện ý chí phấn đấu và tinh thần ham học. Năm cuối trung học phổ thông, anh đã có thơ đăng trên báo Hà Tĩnh. Sau một thời gian tham gia quân ngũ, anh học qua đại học công an, đại học tổng hợp, Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du và có nhiều năm phục vụ trong ngành công an. Tuy vậy, anh yêu thích văn chương, báo chí và gắn bó với nghiệp cầm bút như một duyên nợ.

Lê Tiến Mợi từng tham gia viết báo và có những tác phẩm đạt chất lượng cao, được in trên báo Đảng và các tờ báo lớn ở trung ương, nhưng anh chủ yếu làm thơ, viết văn.  Đề tài trong thơ Lê Tiến Mợi khá phong phú, trong đó các tác phẩm anh viết về biển đảo tạo được sức hút đối với người đọc. Vốn là người con của vùng biển Cửa Sót, Hà Tĩnh và từng tham gia lực lượng vũ trang, Lê Tiến Mợi mang tình yêu tha thiết đổi với biển đảo và luôn hướng lòng mình về vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Cho đến nay, anh đã có 63 bài thơ viết về đề tài này, được tập hợp trong cuốn Trường Sa trong trái tim ta, do nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2013, trong đó có 17 bài được dịch sang tiếng Anh, sáu bài đã được phổ nhạc. Hình ảnh biển cả quê hương hiện lên trong thơ anh thật đẹp. Đứng trước biển, lòng anh ngân lên niềm rung cảm, tự hào với những câu thơ có âm điệu ngọt ngào, tươi tắn:

Thạch Kim quê em đẹp tuyệt vời

Buồm căng gió lộng giữa biển khơi

Mực tôm đầy khoang thuyền cặp bến

Quê hương giàu đẹp sáng biển trời”

(Chiều khơi)

Về thăm “Đảo Nam Giới cát màu lấp lánh”, nhà thơ đắm say trước vẻ đẹp của thiên nhiện và các sản vật trong cảnh đất nước thanh bình:

“San hô trên đảo màu trắng ngọc ngà

Mọc từ đáy biển nở hoa trên cạn

Trong không gian tĩnh nhuốm màu lãng mạn

Tựa hoa ti gôn – hoài vọng đợi chờ”

(Hoa tigôn trên đảo Nam Giới)

Lê Tiến Mợi yêu biển đảo quê hương với tình yêu tha thiết và sâu lắng. Những năm tháng xa cách, lòng anh không nguôi nỗi nhớ. Anh thầm hẹn ước một ngày sẽ cùng người thương trở về thăm vùng biển quê nhà:

“Đón em về quê mẹ - Biển Thạch Khê

Ngắm quặng sắt trào lên từ đáy biển

Cảng Vũng Áng sáng bừng trong ánh điện

Đoàn tàu về cặp cảng dưới đêm trăng”

(Biển mặn tình em)

Với âm điệu sống động và những từ “trào lên”, “sáng bừng” cùng hình ảnh đêm trăng, khổ thơ vừa như một đoạn clip ngắn đặc tả cảnh sắc kỳ vĩ của biển cả, vừa nói lên tình yêu tha thiết và niềm tự hào của tác giả trước sự đẹp giàu của quê hương, đất nước.

Đứng trước biển, bằng ngòi bút tinh tế của mình, Lê Tiến Mợi đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên lãng mạn và đầy chất thơ, với những đợt sóng nhẹ nhàng, êm đềm như cánh tay dịu dàng đang vuốt ve bờ cát, giữa không gian vừa yên bình, vừa hư ảo, lung linh:

“Sóng vỗ về trên từng triền cát trắng

Chiều hoàng hôn gom nắng giữa biển mơ

Biển thì thầm điều gì trong sóng biếc?

Chia góc nhân tình cho trăng và thơ”               

Trong tâm thức tác giả, biển quê hương thật gần gũi, thân thương nhưng luôn  mang trong mình một vẻ huyền bí sâu xa. Sự huyền bí ấy gắn liền với những biểu tượng về cái đẹp vĩnh cửu của vũ trụ và con người là trăng, thơ và tình yêu, tạo nên một không gian đầy mơ mộng. Nhà thơ cảm thấy lòng rạo rực, băn khoăn:

“Cứ nôn nao như có gì lỗi hẹn…

Sợi tơ trời giăng giữa biển đêm trăng

Dùng dằng mãi…

                           có gì chưa trọn vẹn…?

Anh và em duyên nợ biển Thiên Cầm”

(Biển Thiên Cầm)

Càng yêu tha thiết vùng biển quê hương, Lê Tiến Mợi càng trải lòng mình với mọi miền đất nước. Anh đã đến với nhiều vùng biển từ Bắc chí Nam, đã đi tàu thủy gần 2000 cây số tới các đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Anh hòa mình vào sóng biển Thuận An; bén duyên với vùng cửa biển Phan Rang; tự tình cùng biển Cam Ranh trong đêm trăng thơ mộng; dang vòng tay ôm Nha Trang “biển nắng”; thả hồn về Mũi Né, Ninh Chữ, Vũng Tàu; dõi mắt về ngọn “sóng hồng” Hoàng Sa; xôn xao nỗi nhớ Trường Sa yêu dấu… Một lần đến với vùng biển Đà Nẵng của “khúc ruột miền Trung”, nhà thơ hòa  lòng mình với những người đang bơi lội, vẫy vùng giữa sự vỗ về của sóng biển, và anh ngỡ hàng ngàn mái đầu vừa nhô lên khỏi mặt nước đều đang hướng mắt về một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc với lời thề son sắt thủy chung:

“Cát vẫn trắng trên biển Mỹ Khê

Em bơi trên sóng – sóng vỗ về

Nghìn cái đầu nhô lên mặt nước

Hướng mắt Trường Sa – trọn câu thề”

(Biển Mỹ Khê)

Đó là một một hình ảnh rất đẹp, rất sống động và có ý nghĩa, thể hiện sự tinh tế của tác giả. Phải có một tình yêu sâu nặng đối với biển đảo của Tổ quốc mới viết được câu thơ như vậy.      

Hình như hình ảnh của biển luôn hiện hữu trong tâm tưởng nhà thơ. Với anh, biển đảo của Tổ quốc không chỉ đẹp mà còn giàu có, với nguồn tài nguyên to lớn. Một lần, ngồi trước đại dương mênh mông, Lê Tiến Mợi mãi suy nghĩ về tình yêu, về cuộc sống, nhưng rồi trái tim anh lại hướng nhịp đập về với biển cả. Anh liên tưởng sự đẹp giàu của biển với ánh bình minh rạng ngời của quê hương, đất nước:

“Hai mươi năm một nhịp cầu

Phố xưa xao động một câu thơ tình

Đêm khuya ngắm biển một mình

Lửa hồng dầu khí hay bình minh lên?”

(Tìm trong lãng vắng)

Đến với biển Nha Trang, trong lòng nhà thơ dội lên những câu thơ hào sảng:

“Hỡi biển Nha Trang gió mát

Hãy chở chị Hằng lên

Chiếu ánh sáng trên sóng bạc

Cho tàu thuyền ta như những mũi tên

Đuổi cá kình

Vây cá thu

Làm chủ ngư trường”        

Lê Tiến Mợi không nói “chờ” mà anh gọi biển “chở chị Hằng lên”. Chữ “chở” thể hiện một tinh thần hoàn toàn chủ động. Trước mắt người đọc, hình ảnh vầng trăng vàng đang hiện dần trên đại dương mênh mông, tỏa ánh sáng xuống muôn ngàn ngọn sóng bạc thật đẹp và kỳ vĩ. Giữa không gian thơ mộng ấy, cảnh những đoàn thuyền như những mũi tên vây đuổi các đàn cá, làm chủ ngư trường tạo nên một thước phim thật sống động.

Trước mắt nhà thơ, mùa xuân về trên biển rất chậm nhưng để lại những ấn tượng không thể phai mờ, với những sắc màu lung linh, những âm thanh trong trẻo, hòa nhịp với cuộc sống con người, tạo nên một khung cảnh thật hùng tráng và rực rỡ:

“Ôi! Lạ thật!Mùa xuân về rất chậm

tiếng xuân rơi trên biển ngọc giàn khoan

biển xanh thẳm

những cánh buồm vươn ngang tầm hoài niệm

tôi với biển

biển Vũng Tàu xanh quắc màu ngọc bích

biển với người – người và biển nên thơ”

(Mùa xuân về trước biển)

Cụm từ “tiếng xuân rơi” được tác giả sử dụng thật đắc địa!

Nhân dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước, vinh dự được tham gia phái đoàn từ đất liền ra thăm Trường Sa, nhà thơ Lê Tiến Mợi cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui sướng, tự hào. Trên hành trình cùng con tàu rẽ sóng ra khơi, biển đảo của Tổ quốc hiện lên trước mắt anh thật lộng lẫy:

“Quốc khánh thu này rực sắc hoa                                     

Tàu anh rẽ sóng ra Trường Sa

Trên đảo Sinh Tồn hoàng hôn đẹp

Em buông cặp mắt giữa biển hoa”

Hình ảnh con tàu sẽ sóng ra khơi vừa nói lên sự mạnh mẽ, hùng dũng, vừa gợi tả  cảnh đất nước thanh bình và tư thế của những người làm chủ đại dương. Qua ngòi bút tác giả, hoàng hôn trên đảo diễn ra giữa “biển hoa” thật rực rỡ và huyền ảo, làm say đắm lòng người. Có lẽ, bên cạnh sự phản chiếu từ mặt biển bởi ánh đèn pha của con tàu và ánh đèn điện của những người “lính đảo”, sự rực rỡ, huyền diệu ấy còn là thần thái của một đêm “trời sao trên biển, biển nhân sao” như nhà thơ Huy Cận đã diễn tả trong một bài thơ nổi tiếng.

Nhưng, bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ, đảo tiền tiêu luôn phải đối mặt với bão tố, phong ba cùng sự cách chia với đất liền một khoảng không gian xa vời vợi. Đến với biển đảo mới thấy hết sự vất vả, thiếu thốn của những người chiến sỹ đang ngày đêm canh giữ phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc giữa trùng khơi. Vì sự trường tồn và hưng thịnh của đất nước, họ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình. Là người từng ở trong quân ngũ, nhà thơ thấu hiểu sâu sắc sự vất vả, thiếu thốn ấy. Tự đáy lòng, anh dành cho họ niềm yêu thương, cảm phục sâu sắc thông qua sự so sánh tinh tế:

“Tôi ra biển xa đất liền nhớ mẹ

Lính trẻ Trường Sa nhớ cả quê nhà

Nhưng vì chủ quyền thiêng liêng trên biển đảo

Lý tưởng các anh trong sáng ngọc ngà”

(Trường Sa trong trái tim ta)

Đối với mỗi chúng ta, nỗi nhớ mẹ khi xa là nỗi nhớ ray rứt khôn nguôi. Nhưng, trong sự cảm nhận đầy tinh thần nhân văn của nhà thơ, những người lính đảo không chỉ nhớ mẹ mà“nhớ cả quê nhà”. Đó là tình cảm to lớn, đồng thời là sự hy sinh vô giá chỉ có ở những con người sẵn sàng dấn thân cho lý tưởng cao đẹp. Nói lên điều đó, tác giả đã thể hiện sự chia sẻ sâu sắc với nỗi niềm của người chiến sỹ và tôn vinh họ một cách trân quý nhất.

Với tình yêu và nỗi nhớ Trường Sa, mỗi khi ngắm nhìn những hạm đội hải quân của Quân đội Nhân dân Viêt Nam vượt sóng ra khơi, nhà thơ – chiến sỹ Lê Tiến Mợi lại hướng tầm mắt ra đại dương và lòng anh ngân lên những câu thơ  đầy xúc cảm:   

“Đẹp làm sao hình ảnh anh người lính biển

Những chuyến hải trình giữ gìn giới tuyến

Trăng soi đường biển tình tự đêm đêm…”

(Biển đêm đêm tình tự với mình)

Trong tâm tưởng nhà thơ, hình ảnh người lính biển thật gần gũi và cao đẹp, và  chính vì lẽ đó, thiên nhiên cũng thể hiện sự cảm phục và hết lòng hỗ trợ họ, xem họ như người bạn tâm tình. Qua những câu thơ chắt lọc từ đáy lòng, tác giả muốn gửi tới những người con thân yêu của Tổ quốc đang xem “đảo là nhà, biển cả là quê hương” những tình cảm sâu đậm nhất.

Đọc những bài thơ viết về biển của Lê Tiến Mợi, ta cảm nhận rõ những rung động chân thực và sâu sắc của anh. Những rung động đó bắt nguồn từ tình yêu, niềm tự hào về chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc trên biển đảo và những người chiến sỹ đang ngày đêm canh giữ quyền chủ quyền ấy.

Để chuyển tải nội dung trên đây, tác giả đã sử dụng các biệp pháp so sánh, suy tưởng, nhân cách hóa… khá chủ động, linh hoạt. Ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ anh thường sinh động, súc tích và có khả năng biểu đạt cao. Nhiều tác phẩm của anh như là sự kết hợp đẹp đẽ giữa thơ, nhạc, họa và điện ảnh, làm cho câu thơ có sức lay động và lan tỏa. Tuy nhiên, bên cạnh những vần thơ vừa uyển chuyển, bay bổng, vừa có sức mạnh nội sinh, một số câu thơ của anh còn tạo cảm giác chông chênh. Có lẽ, nguồn xúc cảm sôi nổi và dồi dào của tác giả đã tạo nên sự xô đẩy ý thơ cùng ngôn từ chăng?

Thơ Lê Tiến Mợi là sự bộc bạch tư tưởng, tình cảm một cách tự nhiên, mạnh mẽ và có chiều sâu. Đọc những bài thơ viết về biển đảo của Lê Tiến Mợi, ta cảm thấy lòng ấm áp hơn. Gấp tập thơ Trường Sa trong trái tim ta của anh lại, hình ảnh tươi đẹp, hùng vĩ và giàu có của biển Việt Nam cùng những con người đang ngày đêm gìn giữ chủ quyền, khai thác tiềm năng của biển đảo như vẫn đang hiện về trong tâm thức và trước mắt ta.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm