TIN TỨC

Trang Thế Hy - người đi chỗ khác chơi

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-03-04 08:57:47
mail facebook google pos stwis
902 lượt xem

PHM S SÁU

Tháng 10 năm 1992 sau khi nhận sổ hưu từ cơ quan Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, với tuyên bố “tôi s ri thành ph để đi ch khác chơi vì đã hoàn thành nhim v”, nhà văn Trang Thế Hy đã tạo ra một làn sóng dư luận khá sôi nổi, không chỉ trong lòng người hoạt động văn học nghệ thuật, mà cả trong dư luận chung rộng rãi. Trong khi hàng vạn, hàng triệu người đang ngày đêm tìm mọi cách, mọi cơ hội để có mặt tại thành phố, dù là đang trẻ tuổi hăng máu hay đang kiệt sức nghỉ hưu, thì ông một người thành phố lại tuyên bố sẽ rời thành phố về quê vui thú an nhàn ở tuổi gần 70. Có lẽ nào ông là người nghĩ khác?

Thật ra chuyện đi hay ở với nhà văn không phải là chuyện quan trọng. Vốn là người sinh ra từ vùng ngoại vi thị xã Bến Tre trong những tháng năm dài nô lệ, khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông đã là chàng trai 21 tuổi. Ông tích cực tham gia mọi sinh hoạt của tổ chức đoàn thể tại địa phương. Với vốn sở học của mình, lý ra ông đã trở thành ông nầy ông nọ trong hàng ngũ cách mạng, nhưng không, ông vẫn là ông, con người điềm đạm nho nhã với cung cách đằm thắm, ngay cả trong lời ăn nết ở. Gần 50 năm tham gia hoạt động cách mạng, chàng thanh niên đã rời làng quê huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre ngày nào trong sục sôi đấu tranh nay trở lại quê nhà với cuộc sống thật dịu êm bên dưới rặng dừa trong ngôi vườn không nhiều cây trái, ngày ngày uống trà, đọc sách, đàm đạo văn chương với bạn văn xa gần mỗi lần ghé lại hoặc chuyện trò thời sự cùng những người đồng hương già trẻ. Cuộc sống dường như trôi đi rất chậm trong ngôi nhà ấy, đôi khi tưởng như rất buồn tẻ, nhưng không, nó vẫn ăm ắp nỗi đau thế sự xoay vần, vẫn đau đáu niềm lo về người nầy kẻ kia trong làng văn trận bút.

Tôi được biết về ông khá trễ, có lẽ là trễ nhất trong số những người cùng chung cơ quan Hội Nhà văn thành phố. Trước đó khoảng gần chục năm, tôi cũng biết sơ về ông, không phải bằng con người thật, mà bằng văn chương, với những truyện ngắn như được trau chuốt từng chữ đăng trên báo Văn ngh Thành ph H Chí Minh - nơi coi như địa chỉ tập hợp anh hào sau một thời ly loạn của thành phố. Ở đó có Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Phạm Tường Hạnh, Mai Văn Tạo, Chim Trắng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Chí Hiếu, Hoài Anh, Trần Nhật Thu, Lê Dụng và nhiều người khác nữa. Họ là những người ở rừng về, từ Bắc vô, đang tạo ra một chân dung văn nghệ thành phố mới giải phóng với nhiều hình ảnh sống động, tuy còn nhiều khó khăn nhưng sinh động và tươi mới. Mang tiếng là người của báo, nhưng ông viết không nhiều, lâu lắm mới thấy xuất hiện một truyện ngắn, có truyện đăng tới hai ba kỳ báo, nhưng nhiều người không gọi ông là nhà văn Trang Thế Hy, mà họ thường gọi là anh Tư Sâm, hay như chúng tôi hay gọi là chú Tư. Chú Tư có cách nói, điệu cười, dáng đi, kiểu đứng không có gì khác người, nhưng vẫn có cái gì đó thực sự nho nhã, nền nếp, khác biệt với những người khác. Sự khác biệt ấy không làm cho ông cách xa đám đông, tách biệt tập thể mà như một nốt luyến trong âm nhạc, nó làm giàu có đời sống vốn nhiều thanh điệu thường bủa vây chung quanh.

Bằng cách nói rõ ràng, mạch lạc, chậm rãi, không thừa ít thiếu, nhà văn có cuộc sống đơn chiếc trong khu tập thể 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa tưởng như rất buồn. Nhưng không phải thế. Phòng ông, chỗ ông luôn luôn ngăn nắp, đầy ắp tiếng cười, giọng nói trong những buổi rượu trà với người đồng điệu. Căn phòng nhỏ, có cửa sổ nhìn ra con đường vào thành phố ngập tràn tiếng xe dù lúc khó khăn chật vật thiếu thốn mọi bề vẫn là nơi lui tới đi về của ông - một người mài chữ ra truyện.

Không biết ông chuyển biên chế về Hội Nhà văn lúc nào mà khi tôi chuyển ngành về Hội Nhà văn đã thấy tên ông trong danh sách những cán bộ thuộc cơ quan cùng với Sơn Nam, Mai Văn Tạo, Trần Thanh Giao, Thanh Giang, Lê Giang, Trần Mạnh Hảo. Tôi chỉ nghe về ông qua những người đã từng sống cùng ông trong những năm tháng ở rừng như Nguyễn Quang Sáng, Diệp Minh Tuyền, Chim Trắng, Lê Văn Thảo - những người luôn luôn gọi tên ông bằng cái tên Anh Tư rất đỗi thân thương và trìu mến. Nào là đi công tác với Anh Tư là khỏi lo bị đói, khỏi sợ thiếu cái ăn, đôi khi được ăn sang và ăn ngon nữa, vì anh Tư là người chịu khó chế biến các món nhậu ở rừng thuộc hàng bá cháy, và đặc biệt là anh Tư có tài săn thú rất hay. Tài săn thú thì tôi chưa chứng kiến, nhưng tài chế biến món ăn của anh Tư thì tôi cũng vinh dự được đôi lần tham gia nhân dịp anh tiếp một vài ông bạn văn chương trên đường hành phương Nam ghé thăm ông với rất nhiều tình cảm. Những món ăn ở nhà một người đàn ông đơn chiếc thường không nhiều nhặn gì nhưng được chế biến bởi một người sành ăn nên rất đậm đà và thi vị. Điểm đặc biệt nổi bật nhất trong bữa ăn ở nhà ông Tư Sâm là rượu. Rượu được ông Tư tinh tuyển từ những chuyến đi thực tế, từ những món quà bằng hữu tâm giao nên không lẫn vào đâu được. Trong những năm tháng khó khăn chung, ông Tư vẫn ung dung trà rượu với bằng hữu bằng những sưu tập của mình, quả là một chuyện kỳ công.

Những ngày còn ở thành phố hay hơn 20 năm nay "đi chỗ khác chơi" ở quê xứ Bến Tre, ông Tư vẫn chăm chú đọc và đọc thật nhiều những cây bút trẻ. Quả là không xa lạ khi người viết đồng bằng sông Cửu Long luôn xem ông như ông thầy, một bậc đàn anh đáng kính. Mỗi lần có dịp đi lên khu vực miền trung Nam Bộ là hầu như ai cũng sắp xếp một chuyến gặp gỡ với nhà văn Trang Thế Hy tại ngôi nhà nhỏ ngoại vi thị xã Bến Tre của ông. Những Ngô Khắc Tài, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Trung Khâu, Trịnh Bửu Hoài và nhiều người khác nữa luôn xem ngôi nhà nhỏ ở ngoại vi tỉnh lỵ Bến Tre là một nơi chốn thân thương. Bởi ở đó họ được tiếp đón không phải bằng tình cảm của người trên kẻ trước, mà bằng tình cảm nồng ấm ruột thịt như cha con ông cháu một nhà. Sự gần gũi, thân thiết của ông là sự gần gũi thân tình rất mực, không kẻ cả, khoa trương, không lão làng văn giới.

Có thể nói trong gần 70 năm cầm bút sáng tác của mình, dù khởi sự bằng thơ, tiếp đến là dịch thuật, sau nầy được biết đến như một nhà văn với nhiều bút danh khác nhau như Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái Văn, Minh Phẩm và Trang Thế Hy, nhưng số lượng tác phẩm xuất bản của ông không nhiều. Có thể kể đến như Nng đẹp min quê ngoi (1964), Mưa m (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương th Mười ba (1989), Tiếng khóc và tiếng hát (1993), N nước mt và nhng truyn ngn khác (2001) và tập thơ Đắng và ngt (2009). Năm 2011, khi Nhà xuất bản Trẻ tái bản và đưa tập truyện ngắn Vết thương th Mười ba vào trong tủ sách Mi tác gi Mt tác phm, tôi đã có dịp chứng kiến sức làm việc không biết mệt mỏi của ông. Ông đã ngồi lại chỉnh sửa từng trang bản thảo, bỏ chữ nầy thêm chữ kia vào từng trang sách, vào từng truyện ngắn với mong mỏi là bạn đọc được tiếp nhận một văn bản có trách nhiệm của nhà văn - một công việc mà tôi thấy những nhà văn lớn tuổi thế hệ trước hay làm như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và nay là Trang Thế Hy.

Trong nhiều lần trò chuyện với nhà văn, điều tôi nhận ra ở ông là tấm lòng của người ăn quả nhớ người trồng cây, là tấm lòng với người nông dân Việt. Ông thường nói chúng ta lớn lên từ nông dân nông thôn, rồi lại xem nông dân là bạn, nhưng đối xử với người nông dân chưa bao giờ là bạn cả. Hạt gạo, con tôm, con cá do người nông dân một nắng hai sương làm ra đã làm giàu cho biết bao nhiêu người buôn bán (cả bán hàng hoá lẫn bán chức quyền), cho nhà nước nhưng bù lại người nông dân được gì. Họ vẫn sống trong những điều kiện thấp kém nhất và luôn luôn được đối xử như những người... hèn kém nhất.

Tôi nhớ khi ký tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn Việt Nam cùng với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn Trang Thế Hy còn chú thích thêm bên cạnh bút danh của mình là nhà thơ Phạm Võ. Hỏi ông vì sao lại đưa tên Phạm Võ vào đây thì ông nói nếu không người ta sẽ nói là hai thằng cha làm văn đi giới thiệu một tay làm thơ vào Hội thì kỳ lắm.

Thì ra là vậy. Ông cẩn trọng và kỹ lưỡng trong từng hành động, lời nói và ngay cả việc làm. Bởi theo ông điều còn lại của nhà văn là tác phẩm, mà cái còn lại của tác phẩm là gì nếu không là ngôn ngữ. Chính ngôn ngữ quyết định tác phẩm đó có sống được với thời gian, với bạn đọc hay không. Bất chợt tôi nhớ đến bài thơ Bt đứt si ch hng trong tập thơ Đắng và ngt của ông. Bài thơ như ông từng mở ngoặc là lời một người con gái có người yêu là nhà thơ. Bài thơ như sau:

Hi mình mi yêu nhau, cây kéo kim duyt tm trú trong đầu anh như khách không mi mà đến
Ch
thnh thong nó mi e dè ct b mt vài bông hoa tư duy nh n ra trên trang viết ca anh
N
ó ái ngi thy anh a l nhìn nhng git nha tươi a ra t nhng cánh hoa được ct xén
T
ái ngi nó chuyn qua thương anh ri ti nghip anh như mt nhà thơ nhát gan
B
ây gi cây kéo kim duyt không phi là khách, nó có h khu thường trú trong trái tim anh
Tr
ước s dng dưng vô cm ca anh, nó ct xén không thương tiếc nhng bông hoa cm nghĩ ca anh, k c nhng búp chưa kp n
N
ó lnh lùng nhưng đôi khi cũng nói. Nó không nói anh nhát gan, nó nói anh hèn...

Một bài thơ nói nhiều điều về sự sáng tạo, về thói quen và nhiều thứ khác mà chúng ta cứ vô tình cho nó tự tiêm nhiễm, tự đầu độc mình trong quá trình sống với con người. Một sự cảnh tỉnh về thói quen trong nếp nghĩ suy phần nào khá đơn giản của nhiều người trong xã hội chúng ta.

Thành ph H Chí Minh, tháng 6.2013/ PSS.

 

Nhà văn Hoàng Đình Quang bên mộ nhà thơ Trang Thế Hy.
 

Đoàn nhà văn TPHCM bên mộ nhà thơ Trang Thế Hy, 9/2018.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Việc nước chưa xong đầu đã bạc
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần để lại cho mỗi người Việt Nam và cộng đồng quốc tế những cảm xúc khác nhau; trong tôi, đó là sự kính trọng và thương tiếc.
Xem thêm
Có một mái đầu tóc bạc - bài hát đầy yêu thương tự hào…
”Có một mái đầu bạc “, bài hát đầy yêu thương tự hào với nhà lãnh đạo được nhân dân vô cùng yêu quý: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Xem thêm
Có một ngôi sao sáng, một ngọn lửa đỏ rực không bao giờ tắt
Bài do tác giả gửi cho Văn chương TP Hồ Chí Minh
Xem thêm
Sáng mãi ánh Sao Khuê - Chùm thơ nhiều tác giả
Chùm thơ của Nguyễn Minh Tâm, Nguyên Hùng, Hồ Bá Thâm
Xem thêm
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến, với tôi là xà ngang, cột dọc
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đã khá lâu không gặp. Dù công việc tôi đều theo tư cách đàn em, luôn hỏi anh. Nhớ ngày xưa, khi rất khó khăn, cần tiền đúng như mong “Bác Hồ hiện diện”, anh đã mời và bố trí tôi viết kịch bản phim truyện để có cần câu cơm mưu sinh khi làm ông bố. Cuộc mưu sinh đó cũng đã rất xa rồi. Hậu duệ của cuộc mưu sinh chắc chắn hoàn toàn không biết. Bạn ấy đã là chủ gia đình riêng nhỏ. Phạm Ngọc Tiến đã biết sợ không dám nhận thách đấu bia rượu thuồng luồng như ngày trước.
Xem thêm
Nhà thơ Văn Công Hùng với nhà thơ Hoàng Cát
Bài viết của nhà thơ Văn Công Hùng cùng bài thơ ký họa chân dung Hoàng Cát thay vài nén nhang viếng vọng từ xa.
Xem thêm
Một nhà quản lý thép với trái tim ấm nồng Trần Quỳnh Hoa
 Tập truyện ký “Bông Mai Xanh kiêu hãnh” là một tác phẩm mới, khá cuốn hút của nhà văn Kiều Bích Hậu, xoay quanh nhân vật chính – Cử nhân Khánh Hương.
Xem thêm
Nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa – tư tưởng Phan Khôi
Nhắc đến tiến trình vận động và phát triển của văn hóa, tư tưởng và báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không ai có thể phủ nhận những đóng góp cũng như vai trò to lớn của một nhà báo, nhà văn và nhà văn hóa – tư tưởng xuất sắc Phan Khôi (1887-1959).
Xem thêm
Tác giả Phùng Hiệu: Nhà văn đi làm báo sẽ dễ hơn nhà báo đi viết văn
Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, nhà báo Phùng Hiệu đã chia sẻ những chiến lược và phương pháp độc đáo giúp duy trì sự cân bằng giữa công việc viết báo và sáng tác sách.
Xem thêm
Nơi sâu thẳm trái tim vị tướng
Bài viết của Trung tướng, PGS-TS NGUYỄN ĐỨC HẢI, Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Xem thêm
Đan Thanh - nghệ sĩ kết nối thi ca và hội họa
Với hiểu biết khiêm tốn của một nhà giáo hâm mộ văn học nghệ thuật, tôi được biết thầy giáo - nhà văn Nguyễn Thanh. Thầy Nguyễn Thanh tên thật là Nguyễn Tấn Thành sinh ra tại xã Tân Quới, quận Bình Minh, Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long). Khi làm văn nghệ, thầy Nguyễn Thanh còn dùng những bút danh khác để viết cho nhiều thể loại bài khác nhau : Thanh Huyền, Ngũ Lang, Đan Thanh, Phương Đình, Tương Như, Diễm Thi, Minh Khuê, Minh Văn, Lan Đình, Chàng Văn… Thầy tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Cử nhân Văn khoa và đã qua 3 năm chưong trình Cao học Văn chương và Ngoại ngữ tại Đại học Văn khoa Sài Gòn (1975).
Xem thêm
Giao hưởng Điện Biên – thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
Chiến thắng Điện Biên là một chiến thắng vĩ đại của chúng ta “Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu). Chiến thắng đó làm rạng danh nước Việt trên thế giới. “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thằng bay trên nóc hầm tướng Đờ cát, ngày 12 tháng 5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân : “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó Tố Hữu mới có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Điện Biên còn được các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nhắc đến nhiều trong các bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Điện Biên cũng được nhắc đến trong các cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh, nhà báo của ta và phương Tây.
Xem thêm
“Chia lửa” với chiến dịch Điện Biên Phủ
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 122, thứ năm 2-5-2024
Xem thêm
Nhà thơ lê Đình Hòa chỉ thấy hoa phượng trắng
Bài viết của Lê Thiếu Nhơn về nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa ở Phú Yên
Xem thêm
Lãng tử trong đời, chí thú trong văn
Bài viết về nhà văn Nguyễn Hoàng Thu trên báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm