TIN TỨC

Truyện ngắn về chiến tranh của Bảo Ninh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
2330 lượt xem

Độc giả trong nước và quốc tế thường biết đến Bảo Ninh là tác giả của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Kể từ khi xuất bản lần đầu (1991), cuốn tiểu thuyết này là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về chiến tranh Việt Nam. Kí ức đau thương kinh hoàng của người lính trực tiếp tham gia trận mạc, sự chán ghét chiến tranh xen lẫn những cảnh huống lãng mạn, bi hùng được biểu đạt bằng một văn phong trau chuốt, tràn đầy cảm xúc đã mang lại cho tác phẩm sự thành công vang dội. “Nỗi buồn chiến tranh” là sự thăng hoa của hồn văn và lực bút Bảo Ninh.


Bên cạnh một Bảo Ninh tiểu thuyết là một Bảo Ninh truyện ngắn. Kí ức chiến tranh với tất cả những gì đau thương, đẹp đẽ còn được Bảo Ninh thể hiện hấp dẫn và sâu sắc nơi những tự sự ngắn này.

Truyện ngắn của Bảo Ninh được dựng từ mô-típ gặp gỡ. Đó là cuộc gặp gỡ bên đường chiến tranh, trước khi anh tân binh vào chiến trường, giữa không gian núi đồi hậu phương trong xanh và lãng mạn (Giang). Là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những người lính tăng T54 và thiếu nữ trên đà tiến công vũ bão vào tháng 3/1975 ở một thị trấn thuộc Nha Trang (Ba lẻ một). Là cuộc gặp gỡ giữa rừng mưa thâm u, nơi chiến trường B3 sau tan tành bom đạn để lắng nghe những kỉ niệm đau đớn dai dẳng về tình yêu và phận người (Trại 7 chú lùn). Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man. Nhiều cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí sặc mùi súng đạn, cận kề chết chóc, giữa rừng hoang đồi cháy heo hút phận người (Ngôi sao vô danh). Những phút giây như thế trôi đi chóng vánh. Nhưng chúng không bao giờ bị lãng quên, bởi niềm hoài nhớ luôn day dứt, bởi kết cục của những phận người trong bom đạn là rất khó đoàn viên, là chia lìa, li biệt. Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối. Nhức nhối những phận người bị đẩy vào chiến tranh, bị kẹt giữa hai làn đạn (Gió dại). Nhức nhối một thế hệ đẹp đẽ của hai phía thù nghịch lao vào cuộc tàn sát, bị tước hủy hiện tại, đoạt mất tương lai (Lá thư từ Quý Sửu). Nhức nhối bởi những hi sinh, mất mát và bất ngờ trước sự truyền sinh bí ẩn (Bí ẩn của làn nước, Bằng chứng). Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh.

Hà Nội với phố xá vắng vẻ, thanh bình, tiếng tàu điện leng keng hoài niệm (Hà Nội lúc không giờ); miền tây Quảng Bình, chiến trường B3 Tây Nguyên với những cánh rừng hoang phế, lem cháy loang lổ hoặc bị phun đẫm chất độc da cam (Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm); những dòng suối ngầu đục màu máu; bầu trời rách nát, ầm ù máy bay gầm rú hăm dọa; không khí khẳm mùi thịt rữa, tanh tanh mùi máu… là bối cảnh thường xuất hiện lặp đi lặp lại trong các truyện của Bảo Ninh. Ẩn trong không gian chết chóc và tuyệt vọng ấy là thời gian ngậm ngùi của lễ giao quân, là đường hành quân miên man phấp phỏng, là mùa mưa ậm ì trương phềnh thối rữa, là khoảnh khắc “năm cùng tháng tận trời rét căm căm”, khoảnh khắc của “đêm trừ tịch”, lúc “không giờ”, lúc đạn chuyển làn, đêm trước hòa bình, khoảnh khắc trước khi đổ nhào xối máu bất đắc kì tử vì bom đạn. Trong truyện của Bảo Ninh, cảnh sum vầy dường như để chuẩn bị cho xa lìa rình đón. Tất cả nhuốm một màu hoài niệm mụ mị và xót tiếc quá khứ thanh bình đã vuột mất.

Nhân vật chính của Bảo Ninh là lính trận ở cả hai phía, là những thiếu nữ mỏi mòn nhung nhớ ở hậu phương, những cô thanh niên xung phong bị lãng quên trong rừng sâu tút hút, những người mẹ âm thầm ở quê nhà vô vọng gọi con nơi chiến tuyến. Những người ra đi phần lớn còn rất trẻ. Họ tràn trề sức sống, non dại, trong vắt. Một số ít trong họ rất mực tài hoa, quả cảm và quyết liệt. Dường như tất cả những người đẹp nhất, đáng kì vọng nhất của thế hệ này, nghiệt ngã thay, đều thành nạn nhân của chiến tranh (Hà Nội lúc không giờ, Trại 7 chú lùn, Gọi con). Những người may mắn thoát khỏi cuộc chiến chẳng còn cảm nhận được vinh quang, bởi thân thể rã rời, tàn tạ, già nua, tâm hồn bệch bạc. Họ lận đận, khó khăn khi thích ứng, luôn bị kí ức sừng sững ngăn cách, vò nhàu để rồi có nguy cơ mắc kẹt đâu đó trong quá khứ đau nhói tàn tích bom đạn (Rửa tay gác kiếm).

Nhân vật của Bảo Ninh sầu buồn mà không tuyệt vọng, hẳn nhiên là thế, bởi luôn có một tâm hồn thiếu nữ, người yêu, người chị, người vợ, người mẹ lành ngát, trong ngần, vững chãi gìn giữ, lay thức bản lĩnh của họ, vực họ ra khỏi trống rỗng chán chường do bom đạn chiến tranh đào khoét. Đọc Bảo Ninh, sẽ nhận ra thông điệp của nhà văn về chủ nghĩa hòa bình, về đức hiếu sinh, về tình cha nghĩa mẹ cao dày, về nỗ lực khắc khoải, điềm tĩnh vượt lên quá khứ đau thương và hận thù, lần đến hòa giải, hòa hợp. Chủ đề ấy, qua chữ nghĩa tinh tế, văn phong sầu buồn, đưa Bảo Ninh đến với người đọc, giúp họ trân trọng giá trị to lớn của hòa bình trên thế gian này.

Kế thừa truyền thống sử thi lãng mạn vốn nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê, truyện ngắn Giang của Bảo Ninh như bông hoa lạ bên lề cuộc chiến. Mối tình đầu mới chớm, có chăng có thể gọi được như thế, còn mong manh phảng phất trong một truyện ngắn khác – Hà Nội lúc không giờ. Tình cảm mới nhen, đậm màu lãng mạn, chứa chan tình người nồng hậu đã vào sinh ra tử cùng người lính rồi cô đặc thành kí ức không thể nào quên.

Là các truyện ngắn hay nhưng những truyện kể trên chưa phải là những truyện ngắn hay nhất viết về chiến tranh của Bảo Ninh. Vinh dự ấy thuộc về Trại 7 chú lùn và Gió dại. Ở những truyện này, bi kịch chiến tranh song hành với bi kịch tình yêu. Trong Trại 7 chú lùn, Bảo Ninh, có thể từ vô thức, đã tái sinh kiểu nhân vật người lùn trong huyền thoại, kẻ vốn nắm giữ những bí mật của chốn khuê phòng và tiết lộ nó trong những hình thức khác nhau của ngôn từ và biểu tượng. Mộc đã tiết lộ với “tôi” điều gì thông qua câu chuyện của mình? Đó là bí mật về cuộc sống chiến đấu không súng đạn mà vô cùng gian khổ của người lính tăng gia. Đó là bí mật về những cái chết đau đớn không hề có vòng hào quang nào: chết vì cây đè, vì sốt rét, vì cháy rừng. Đó là bí mật về những anh bộ đội khao khát tình yêu, tình dục mà luôn phải kìm nén, ức chế đến thành lầm lì bất thường. Đó là bí mật về tình yêu tay ba và những phức cảm nảy sinh giữa những người đồng chí, đồng đội xoay quanh sự éo le này. Đây rõ là những bí ẩn phức tạp của chiến tranh. Tuy nhiên, Bảo Ninh vừa phơi mở vừa che đậy. Những lời lẽ “khàn khàn” của Mộc trong trận mưa “lật mùa” trùm phủ nhiều ẩn ý. Câu chuyện cơ bản là buồn bã nhưng nguồn mạch của chủ nghĩa anh hùng và lãng mạn cách mạng vẫn ri rỉ chảy. Bảo Ninh tiết lộ một chủ nghĩa anh hùng khác, một chủ nghĩa anh hùng không được đánh bóng cho sáng lên mà như cây gỗ lớn kia, tuy thô mộc nhưng trụ rất vững giữa đại ngàn, rễ bám chắc vào lòng đất, có khả năng che chở cho con người qua cơn giông tố cuộc đời. Mộc là biểu tượng của sức mạnh nội tâm – sức mạnh giúp anh có đủ khả năng chế ngự các xung động bản năng, vượt qua và vượt lên chính mình khi cận kề người con gái xinh tươi, sôi nổi suốt mấy năm trời. Anh là người một đời kiên trì bền bỉ chịu đựng gian khổ, tận tụy hi sinh, một đời thủy chung với lời thề hẹn, một đời nguyện làm thần thổ địa đợi chờ nơi ngã ba Đông Dương heo hút. Liệu Mộc có phải là người lùn trong truyện cổ Grimm “tàn nhẫn, bạc bẽo” hay anh là biểu tượng của người đàn ông can đảm, nặng nghĩa sâu tình, người đã chịu đựng và vượt qua những thử thách ghê gớm nhất của chiến tranh?

Như Trại 7 chú lùn đã trình hiện, kết cục của những con người trong bom đạn là rất khó đoàn viên, là chia lìa, li biệt. Mộc càng kì vọng gặp lại Nga thì nỗi đau khổ mà anh gánh chịu càng thêm dai dẳng. Dường như đối với những người như Mộc, nếu không kể ra được, không được tâm sự với ai, sẽ phải đau đớn làm mồi cho thinh lặng. Trại 7 chú lùn vì thế nhận được sự cảm thông, chia sẻ, cổ vũ của bạn đọc. Nhưng với Gió dại, mọi chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Cho đến tận bây giờ, Gió dại vẫn chưa được đọc – hiểu đầy đủ, cho dù đây là truyện ngắn quan trọng viết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1986.

Với Gió dại, Bảo Ninh đã trở lại với một đề tài rất xưa trong văn học Việt Nam: người tài hoa gặp thời loạn lạc. Khác với Trại 7 chú lùn, các nhân vật trong Gió dại thuộc về cả hai phe: những người lính phía bên này và những thường dân phía bên kia. Bảo Ninh đã làm sống lại thứ ngôn ngữ thù nghịch một thời ngăn cách những con người vốn là đồng bào máu đỏ da vàng. Xác đôi tình nhân trốn chạy hứng trọn cơn mưa đạn tố cáo sự phi lí cùng cực của chiến tranh. Gió dại phơi bày trần trụi sự hèn nhát, tàn bạo của lòng người và hé mở vẻ đẹp vĩnh cữu và cao cả của tình yêu. Nghịch lí mà Bảo Ninh đã viết trong phần kết truyện ngắn này có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc.

Cụ thân sinh của Bảo Ninh là một giáo sư ngôn ngữ học. Truyền thống gia đình có thể đã ảnh hưởng nhiều đến lối viết của nhà văn. Văn chương của Bảo Ninh đẹp bởi ngôn từ phong phú, được chọn lựa kĩ càng, chính xác. Kí ức chiến tranh với mọi ngóc ngách của nó đều được chữ của Bảo Ninh đánh thức. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan nhận định, Bảo Ninh đã “dồn tối đa sức mạnh vào những mô tả”, “những mô tả toát lên vẻ đẹp thi ca trên cả hai mặt ngôn ngữ và cảm xúc”(1). Quả thực, Bảo Ninh là nhà văn có biệt tài mô tả. Ông tả tỉ mỉ, chính xác đến đau nhói về những vết thương chiến tranh, về trận mạc, chết chóc và những hoang hoải phận người dưới làn đạn chéo. Hiếm có nhà văn Việt Nam đương đại nào có khả năng dựng được không khí chiến tranh, li loạn rõ nét, sinh động và sâu thẳm như ông. Trầm lắng, gần như bị vùi lấp giữa tiếng gầm thét của máy bay, rú rít của xe tăng, tiếng thác đổ, mưa xối, còi hú vang báo động, nồi bánh chưng sôi sục…, giọng của người kể chuyện từng trải, kiệm lời khe khẽ cất lên nhịp chậm và buồn khía vào tâm can.

Truyện ngắn Bảo Ninh cực nhiều âm thanh mà vẫn cực độ âm thầm. Nhiều màu sắc mà lại như tranh mực tàu cổ điển. Nét từng trải sầu buồn trong văn ông sang quý hiếm gặp mà vẫn là nỗi đau thế kỉ trong mỗi người Việt Nam. Từ khi xuất hiện, Bảo Ninh đã thu hút sự quan tâm của dư luận. Rất nhiều ý kiến khẳng định tài năng và vẻ đẹp văn chương của ông. Đọc văn Bảo Ninh, tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Bảo Ninh thuộc số rất ít nhà văn có văn đẹp và văn hay”(2).

Nguyễn Văn Thuấn/VNQĐ

——–

1. Xem: Lời giới thiệu, Bảo Ninh tác phẩm chọn lọc, Nxb Phụ nữ, 2011. Bài viết khảo sát các truyện ngắn của Bảo Ninh từ tập sách này.

2. Xem: Bìa 4, Bảo Ninh tác phẩm chọn lọc, sđd.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Việc nước chưa xong đầu đã bạc
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần để lại cho mỗi người Việt Nam và cộng đồng quốc tế những cảm xúc khác nhau; trong tôi, đó là sự kính trọng và thương tiếc.
Xem thêm
Có một mái đầu tóc bạc - bài hát đầy yêu thương tự hào…
”Có một mái đầu bạc “, bài hát đầy yêu thương tự hào với nhà lãnh đạo được nhân dân vô cùng yêu quý: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Xem thêm
Có một ngôi sao sáng, một ngọn lửa đỏ rực không bao giờ tắt
Bài do tác giả gửi cho Văn chương TP Hồ Chí Minh
Xem thêm
Sáng mãi ánh Sao Khuê - Chùm thơ nhiều tác giả
Chùm thơ của Nguyễn Minh Tâm, Nguyên Hùng, Hồ Bá Thâm
Xem thêm
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến, với tôi là xà ngang, cột dọc
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đã khá lâu không gặp. Dù công việc tôi đều theo tư cách đàn em, luôn hỏi anh. Nhớ ngày xưa, khi rất khó khăn, cần tiền đúng như mong “Bác Hồ hiện diện”, anh đã mời và bố trí tôi viết kịch bản phim truyện để có cần câu cơm mưu sinh khi làm ông bố. Cuộc mưu sinh đó cũng đã rất xa rồi. Hậu duệ của cuộc mưu sinh chắc chắn hoàn toàn không biết. Bạn ấy đã là chủ gia đình riêng nhỏ. Phạm Ngọc Tiến đã biết sợ không dám nhận thách đấu bia rượu thuồng luồng như ngày trước.
Xem thêm
Nhà thơ Văn Công Hùng với nhà thơ Hoàng Cát
Bài viết của nhà thơ Văn Công Hùng cùng bài thơ ký họa chân dung Hoàng Cát thay vài nén nhang viếng vọng từ xa.
Xem thêm
Một nhà quản lý thép với trái tim ấm nồng Trần Quỳnh Hoa
 Tập truyện ký “Bông Mai Xanh kiêu hãnh” là một tác phẩm mới, khá cuốn hút của nhà văn Kiều Bích Hậu, xoay quanh nhân vật chính – Cử nhân Khánh Hương.
Xem thêm
Nhà báo, nhà văn, nhà văn hóa – tư tưởng Phan Khôi
Nhắc đến tiến trình vận động và phát triển của văn hóa, tư tưởng và báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không ai có thể phủ nhận những đóng góp cũng như vai trò to lớn của một nhà báo, nhà văn và nhà văn hóa – tư tưởng xuất sắc Phan Khôi (1887-1959).
Xem thêm
Tác giả Phùng Hiệu: Nhà văn đi làm báo sẽ dễ hơn nhà báo đi viết văn
Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, nhà báo Phùng Hiệu đã chia sẻ những chiến lược và phương pháp độc đáo giúp duy trì sự cân bằng giữa công việc viết báo và sáng tác sách.
Xem thêm
Nơi sâu thẳm trái tim vị tướng
Bài viết của Trung tướng, PGS-TS NGUYỄN ĐỨC HẢI, Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Xem thêm
Đan Thanh - nghệ sĩ kết nối thi ca và hội họa
Với hiểu biết khiêm tốn của một nhà giáo hâm mộ văn học nghệ thuật, tôi được biết thầy giáo - nhà văn Nguyễn Thanh. Thầy Nguyễn Thanh tên thật là Nguyễn Tấn Thành sinh ra tại xã Tân Quới, quận Bình Minh, Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long). Khi làm văn nghệ, thầy Nguyễn Thanh còn dùng những bút danh khác để viết cho nhiều thể loại bài khác nhau : Thanh Huyền, Ngũ Lang, Đan Thanh, Phương Đình, Tương Như, Diễm Thi, Minh Khuê, Minh Văn, Lan Đình, Chàng Văn… Thầy tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Cử nhân Văn khoa và đã qua 3 năm chưong trình Cao học Văn chương và Ngoại ngữ tại Đại học Văn khoa Sài Gòn (1975).
Xem thêm
Giao hưởng Điện Biên – thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
Chiến thắng Điện Biên là một chiến thắng vĩ đại của chúng ta “Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu). Chiến thắng đó làm rạng danh nước Việt trên thế giới. “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thằng bay trên nóc hầm tướng Đờ cát, ngày 12 tháng 5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân : “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó Tố Hữu mới có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Điện Biên còn được các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nhắc đến nhiều trong các bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Điện Biên cũng được nhắc đến trong các cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh, nhà báo của ta và phương Tây.
Xem thêm
“Chia lửa” với chiến dịch Điện Biên Phủ
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 122, thứ năm 2-5-2024
Xem thêm
Nhà thơ lê Đình Hòa chỉ thấy hoa phượng trắng
Bài viết của Lê Thiếu Nhơn về nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa ở Phú Yên
Xem thêm
Lãng tử trong đời, chí thú trong văn
Bài viết về nhà văn Nguyễn Hoàng Thu trên báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm