TIN TỨC

“Từ khóa Huế” trong cảm xúc thơ Trương Nam Hương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
256 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Huế là vùng “đất thơ”. Không chỉ các nhà thơ gốc Huế từ trước đến nay, mà các nhà thơ, nhà văn có dịp ghé Huế đều muốn chọn Huế làm “nhân vật trữ tình” trong thơ hoặc âm nhạc. Đến Huế, chắc chắn sẽ “tức cảnh sinh tình”, chưa có bài thơ về Huế, dễ nhận ra “mắc nợ”, “vô tình” với Huế. Chưa nói đến sáng tác, thơ về Huế luôn mang đến cho người yêu thơ cảm xúc đặc biệt.Z
 


Nhà thơ Trương Nam Hương

Trong số các nhà thơ đương đại viết về Huế, phải kể đến nhà thơ Trương Nam Hương. Nàng thơ - phu nhân nhà thơ, có lần nói: “Anh Hương yêu Huế hơn yêu em”. Cũng đúng thôi, dẫu lời nói có gia vị của dỗi hờn.

Ngoài tình cảm chung với Huế, Trương Nam Hương có tình cảm riêng, với tư cách một nhà thơ có cố thổ là Huế. Thân phụ nhà thơ Trương Nam Hương là người Huế, ông tập kết ra Bắc, rồi lấy vợ quê Bắc Ninh. Tuổi thơ Trương Nam Hương gắn bó với Hà Nội, sau thời gian ngắn ở Huế, Biên Hòa, gia đình ông định cư tại TP. Hồ Chí Minh cho đến nay. Trương Nam Hương từng học Trường Cấp 2 (nay là Phổ thông cơ sở) mang tên Đại thi hào Nguyễn Du, của Huế.

Trương Nam Hương từng “tự bạch” trong thơ mình: “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố Đô / Sông Hồng hắt đỏ lên thơ / Tôi buông lục bát xanh bờ Hương Giang”, (Gửi hai dòng sông quê).

Có thể nói trong trái tim thơ Trương Nam Hương có nhiều dòng sông như Sông Cầu (Bắc Ninh), sông Hồng (hay sông Cái, sông Mẹ), sông Hương...Mỗi dòng sông có một vị trí riêng, nhưng sông Hương luôn vỗ vào tâm thức Trương Nam Hương. Hay nói cách khác, nhớ đến sông Hương, cả khoảng trời ký ức bật dậy trong tâm hồn nhà thơ. Sông Hương với anh không chỉ là cố thổ, là văn hóa, là Nhã nhạc, thành quách...mà còn là tâm linh.

...

Anh vịn màu rêu Huế để yêu em

Trước thành quách bao đời em cứ trẻ

Sông Hương chảy thon mình qua dâu bể

Anh mượn vành nón Huế...buổi về thăm

 

Anh vịn lên mưa nắng những thăng trầm

Những cơn bão của vần xoay thế cuộc

Vững như núi, Huế lại đằm như nước

Vạt áo dài mây trắng xuống thi ca.

(Màu Huế)

 

Nhà thơ Mai Văn Hoan – người bạn vong niên của cố nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo kể rằng: “Hai câu thơ xuất thần của Nguyễn Trọng Tạo về Huế Sông Hương hóa rượu ta đến uống / Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say ông nghĩ ra lúc say rượu. Hôm sau người bạn nhậu đọc lại cho nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chép lại”. Đây là bài thơ ngắn nhất về Huế, chỉ có hai câu và là một trong những bài thơ găm vào lòng bạn đọc, trở thành “từ khóa” cảm xúc. Trương Nam Hương cũng có đôi lần say với Huế “Liêu xiêu trăng ngã trên đầu/ Có hai kẻ dại qua cầu thi nhân/ Sóng buồn vỗ mãi bàn chân/ Sông Hương cũng chảy theo vần, Huế ơi”, (Ngẫu hứng đêm Huế)

Nhà thơ Trương Nam Hương vừa bước qua “lục thập hoa giáp”. Ở tuổi không còn trẻ nhưng thơ như người, luôn thánh thiện, trong veo. Văn học là nhân học, rất đúng với Trương Nam Hương, nếu ai từng đọc thơ anh.

Thường ở tuổi không còn trẻ con người ai cũng trân trọng ký ức, nâng niu hoài niệm. Có thể nói Trương Nam Hương đã phác họa thành công “thiên tính” ký ức trong thơ.

...

Anh về nhặt tuổi mình xưa

Bốn mươi năm đủ gói vừa nhớ quên

Đền đài rêu phủ xanh tên

Em hây hẩy muốt mùa sen nguyệt cầm

 

Ngự Bình thông biếc từ tâm

Sông Hương thầm nhắc ta cầm tay nhau

Thời gian lệch gió trên đầu

Sớm hay sợi tóc chuyển màu sang trưa

(Nhặt tuổi mình)

 

Sông Hương, núi Ngự, Vĩ Dạ, chùa Thiên Mụ, tiếng chuông Từ Đàm, thành quách, rêu phong, nắng, mưa, áo dài, tím Huế, tiếng dạ của người Huế...Trương Nam Hương ví von Huế dịu dàng như bàn tay thiếu nữ “Chụm năm ngón hóa Kinh thành/ Thẳng lên hóa núi Ngự Bình thông reo/ Chỉ tay mấy nhánh vòng vèo/ Hóa Hương Giang nước trong veo bốn mùa/ Khum vào hóa nón bài thơ/ Mở ra buồm đón gió lùa Thuận An/ Uốn mềm tay hóa đò ngang/ Chỉa riêng ngón cái đa mang – mái dằm/ Nắm niu cả nỗi khôn cầm/ Ghét thương nắng dại mưa lầm mới buông/ Giọt chiều Thiên Mụ ngân chuông/ Hứng long lanh Huế vui buồn trên tay!”,( Huế trên tay).

Huế là đất kinh đô cũ, đất của Phật giáo...Với sự quan sát tinh tế của mình, hình tượng trong thơ Trương Nam Hương trở nên ám dụ. Hay nói cách khác, Trương Nam Hương là nhà thơ Á Đông, trong thơ anh có vẻ đẹp của hư vô trong giáo lý nhà Phật; “ Cau vườn Vĩ Dạ sau mưa/ Nhớ Hàn Mặc Tử nắng vừa qua đây/ Tương tư lá trúc nghiêng gầy / Gió xoa ngang mặt tháng ngày trái xoan”; “Lặng vào tiếng dạ hiền ngoan / Muốn hôn nắng Huế gặp toàn Huế mưa”, (Nhặt tuổi thơ mình).

...

Em nằm xanh nhé, sông Hương

Ta nghiêng núi Ngự ngồi thương... dịu dàng

Khoả vào trong vắt mênh mang

Có soi kịp nếp cũ càng tháng năm

 

Khói sương dâu bể toan cầm

Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay

Chẳng hoà tan được rủi may

Huế cho không cả ly đầy... bóng vua

(Riêng với sông Hương)

*

**

Tài thơ Trương Nam Hương bộc lộ từ sớm. Khi mới ngoài 20 tuổi. Trong một lần về thăm Huế, anh nhận ra tính cách của quê mình: “Huế thường kín đáo vậy thôi/ Cả khi Huế biết là tôi trở về/ Huế không vồn vã mô tề/ Có thương đứt ruột chớ hề tỏ ra/Huế mình giàu có thi ca/ không sao dắt mệ bước qua phận nghèo/ Sông Hương cũng dốc cũng đèo/ Câu hò mái đẩy gieo neo nổi chìm” (Huế buổi về thăm 1985).

Trương Nam Hương xuất bản Khúc hát người xa xứ, (NXB Trẻ, 1990) và cho đến nay ông đã có 12 tác phẩm. Về thành tựu, Trương Nam Hương đã có 10 giải thưởng; giải nào cũng danh giá, nhưng phải kể đến Giải thưởng Văn nghệ Quân đội (1989-1990) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, (1991), nhiều giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các giải thưởng khác.

 Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng là Ủy viên Ban Chấp hành - Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ  Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh (từ 2000 đến 2020 ). Đối với Hội Nhà văn Việt Nam, Trương Nam Hương từng là Ủy viên Hội đồng Thơ (khoá 8, khóa 9).

Có thể nói, nếu thi ca là một “tôn giáo” của vẻ đẹp thì Trương Nam Hương từ lâu đã được chọn là một tông đồ. Ngoài thơ và dịch thơ, ông không “sân si” một lĩnh vực nào khác. Dẫu “thế giới xô lệch”, đa biến; văn chương cũng đang “đa cảm”, “bươn bả” với nhiều xu hướng, phong cách nhưng Trương Nam Hương luôn vậy, bình thản, thánh thiện. Ông tiếp tục sáng tạo thi ca những gì thuộc về nhân bản, phụng sự “sứ mệnh” tôn vinh cái đẹp. Dẫu viết về thân phận, suy tư về nước mắt thì anh cũng tìm ra vẻ đẹp của nước mắt, mở ra bầu trời hy vọng.

Ngay từ khi bước vào thi ca, Trương Nam Hương đã ý thức tôn vinh tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ tiếng Việt. Nói đến điều này, hẳn ai cũng nhớ đến bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ. Trương Nam Hương nhận ra ở tiếng Việt có “Bốn ngàn năm bổng trầm”, “Thảo thơm như lúa đồng”, mỗi người Việt đều “Lớn lên từ cánh nôi”. Và “Thanh âm hình chữ S / Từ ngàn xưa ông, bà / Tiếng Việt ơi, tiếng Việt / Nuôi nhau bằng dân ca”, (Tiếng Việt ơi, Tiếng Việt).

Trương Nam Hương luôn vậy, là nhà thơ chọn gốc tâm cảm là sự chân thành, trách nhiệm. Hỏi chuyện cảm xúc khi làm thơ về Huế, tâm hồn anh lắng xuống ngọt ngào. “Sông Hương không tuổi thơ không tuổi / Lắng mãi phù sa, ngọt mái chèo”, (Tôn Nữ...sông Hương). Anh đã và vẫn viết về Huế, với hy vọng trả nghĩa, “Mai con về tạ lỗi với phù sa”./.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số Đặc biệt tháng 12/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm