TIN TỨC

Văn học Đà Nẵng: 20 năm một vườn hoa đa sắc, đa thanh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-02-14 11:45:29
mail facebook google pos stwis
1444 lượt xem

Nguyễn Thị Thu Thủy

Trên tay tôi là tập sách Tác phẩm văn học đoạt giải (2001-2021) của Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng vừa xuất bản, còn thơm mùi mực mới. Tập sách được trình bày đẹp, trang trọng, dày trên 600 trang với sự góp mặt của 25 tác giả thơ, 19 tác giả văn xuôi, phần nào phản ánh đời sống hoạt động nghệ thuật khá sôi nổi trong 20 năm qua của đội ngũ các nhà văn trên địa bàn thành phố… Nếu ví văn học Đà Nẵng là một dàn hợp âm đang phô diễn khúc ca về con người và cuộc đời thì mỗi nhà văn là một nhạc công tài năng trong nghệ thuật điều khiển ngôn từ. Chính vì lẽ đó, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong lời giới thiệu ở đầu tuyển tập đã có những nhận xét thật tinh tường: “Văn chương Đà Nẵng trong tuyển tập này giống như những tiếng sóng lớp này đến lớp khác kể cho chúng ta bao câu chuyện và bao bí mật của đại dương đời sống”.

Thật vậy, hơn hai thập kỉ qua, các nhà thơ có mặt trong tuyển tập đã thể hiện những bước tiến khá dài. Từ trang thơ của tác giả đạt giải những năm trước, cách diễn ngôn lập ý giản dị, cụ thể thì càng về sau, các cây bút được xếp giải có ý thức cách tân, đổi mới trong cách diễn đạt, thơ đã đi vào chiều sâu với sự đa tầng, đa nghĩa của ngôn từ, hình ảnh. Mỗi nhà thơ hiện diện trong tập sách là một gam màu, một sắc điệu riêng biệt. Nguyễn Kim Huy thường viết những câu thơ dài như văn xuôi nhưng tinh tế trong cảm xúc, dịu dàng với ý vị riêng tư: “Chiều xuống nhẹ như rơi rất chậm/ Mỗi ngày dường luyến tiếc rời xa” (Mùa xuân). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh nhiều thi ảnh đẹp, giàu triết luận về cuộc sồng, con người, là sự trộn lẫn giữa hư và thực, giữa mộng và đời: “Xin đừng vấp tiếng chim kêu/ Vỡ tan giai điệu mùa thu mượt mà trong trẻo/ Đừng để khi trở về nơi vườn hương cũ/ Tiếng chim lạ rồi mất giọng thơ xưa” (Bay mất ánh trăng). Thơ Nguyễn Nho Khiêm mộc mạc, chân chất đậm hồn cốt làng quê, xứ sở, nơi cội nguồn của cảm xúc thơ: “Làm sao đọc được/ câu thơ của núi/ câu thơ bóng xanh/ câu thơ sông xa/ câu thơ cỏ lạ…/ Sau làn khói cánh đồng tháng ba/ Tôi đã gieo xuống đấy/ Ý nghĩ của tôi, tình yêu của tôi” (Bên ngoài cánh đồng). Thơ Hồ Sĩ Bình tựa như một tiếng thở dài nuối tiếc về một thời quá vãng: “Mỗi một bài thơ tôi viết/ Chỉ để lấp đầy nỗi nuối tiếc không nguôi/ Nếu em không nhặt bài thơ lên đọc/ Làm sao biết/ Một nỗi tiếc nuối nơi em/ Bắt đầu đập cánh bay lên” (Nếu như). Trang viết của Nguyễn Minh Hùng chạm trái tim người đọc bởi cái thảng thốt giật mình ẩn đằng sau câu chữ: “Khi bóng tối và nỗi buồn hóa đất/ Thảng thốt quê nhà/ Gieo hạt nắng xuyên qua” (Hạt nắng); Với Nguyễn Nhã Tiên, niềm hoài cổ làng quê với người mẹ lẫn vào mây lam giăng giăng đỉnh núi; người chị gánh nước đêm vang vọng tiếng gàu va vào thành giếng mãi mãi là niềm riêng: “Tôi từ buổi hừng đông đỏ hỏn/ Con mắt đói lòng ngong ngóng sợi tao nôi” (Hồi quang). Và các nhà thơ khác như Trần Tuấn, H’Man, Hoàng Tư Thiện, Ngân Vịnh, Thanh Quế, Hoàng Thanh Thụy, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Văn Tám, Trần Trúc Tâm… mỗi người hiện diện trong tuyển tập với một dáng vẻ riêng. Có năm nhà thơ nữ có mặt trong tập sách này, mỗi người một “nhan sắc” riêng: Phan Hoàng Phương đắng đót trước những nỗi đau của phận nhi nữ, Thụy Sơn với hồn thơ phảng phất nét cổ xưa, Đinh Thị Như Thúy giàu ẩn ngữ nhưng tiềm tàng nội lực thơ, Võ Kim Ngân với nỗi buồn trong trẻo, Vạn Lộc với những bài thơ bốn câu đầy suy tư…Thấp thoáng trên trang viết của các thi sĩ, ta nhận ra sự hòa quyện giữa chất trữ tình và chất tự sự; niềm ý thức về nghề, nỗi trăn trở về thân phận con người giữa bão lốc của cuộc đời, tình yêu và niềm gắn bó máu thịt với cái đẹp, với quê hương cội nguồn. Họ đã ý thức đổi mới thơ bằng việc tạo tính nhạc, thi ảnh mới lạ, cách kết hợp từ ngữ bất thường nhưng hợp lí; tạo sự mới mẻ ở thơ lục bát bằng cách vắt dòng hay linh hoạt khi hài thanh… Tuy nhiên do tác phẩm đoạt giải xếp theo năm nên chất lượng chưa đồng đều vẫn có đôi vần thơ thiên về chất sử thi hào hùng mà thiếu tính đa thanh, đa nghĩa.

Văn xuôi trong chặng đường 20 năm (2001- 2021) ở Đà Nẵng, các tác giả đoạt giải tương đối đều tay. Phần truyện ngắn chiếm dung lượng chủ yếu trong tập sách; nhiều tác giả có cách tổ chức cốt truyện, nghệ thuật tạo tình huống đặc sắc; trần thuật khá lôi cuốn. Đọc tập sách ở phần văn xuôi, dễ nhận ra, các nhà văn không tự giam hãm, bó buộc mình trong khuôn khổ mà mỗi cây bút là một giọng văn, bút pháp và phong cách đa màu đa sắc. Nhiều cây bút có ý thức tiếp cận thi pháp truyện hiện đại. Nếu truyện ngắn của Bùi Công Dụng có cách kể hấp dẫn, ngôn từ phóng khoáng, “bụi bặm” nhưng ẩn đằng sau mỗi câu chuyện là cái nhìn thắm thiết tình người thì trang văn Nguyễn Thị Anh Đào, Quế Hương nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu chất nhân văn. Những lời văn đằm sâu chất triết luận của hai cây bút nữ này luôn để lại ấn tượng trong lòng độc giả trước khi khép lại trang sách: “Ký ức là điều đáng trân trọng và quý giá, hiện tại là cuộc sống thực của mỗi người và tương lai là những điều hôm nay không thể chạm tới” (Vạt cải hình chữ nhật- NTAĐ); “Kết thúc cái này là để bắt đầu cái khác. Không kết thúc mới là bi kịch” (Đáo bỉ ngạn – QH). Bùi Tự Lực, Vĩnh Quyền, Trần Trung Sáng,Trương Điện Thắng, Nguyễn Văn Xuân, Hoàng Minh Nhân, Thái Bá Lợi, Lê Khôi, Nguyễn Thị Thu Sương, Bùi Văn Tiếng… mỗi nhà văn có một cách kể và hấp dụ độc giả theo một cách thức riêng. Tôi ấn tượng với lối kể nhẩn nha nhưng càng về sau càng lôi cuốn người đọc bởi nghệ thuật tạo tình huống trong trích đoạn tác phẩm: “Kỳ nữ họ Tống” của nhà văn Nguyễn Văn Xuân, “Trong vô tận” của Vĩnh Quyền… Mỗi truyện ngắn trong tuyển tập là những bông hoa đầy hương sắc góp cho khu vườn văn xuôi Đà Nẵng thêm phong phú, rực rỡ.Tình yêu cái Đẹp, ý thức cội nguồn, thân phận con người trong chiến tranh và thời bình, sự hòa quyện giữa chất cổ điển và hiện đại được tái hiện khá rõ nét. Tuy nhiên, mảng ký và tản văn, văn xuôi dành cho thiếu nhi còn ít tác giả có mặt; mong rằng trong chặng đường sau, Đà Nẵng sẽ xuất hiện nhiều cây bút đầu tư cho thể loại này được xếp giải, góp phần cho sự phát triển toàn diện của nền văn học nghệ thuật thành phố.

“Tác phẩm văn học tốt sẽ có tác dụng làm cho con người như bừng thức tỉnh, tự nhận thấy rõ tâm hồn mình, thực sự tìm thấy mình” (Nguyễn Đình Thi). Thật vậy, nhìn lại 20 năm phát triển của văn học Đà Nẵng, ta nhận ra một diện mạo mới của đội ngũ người cầm bút sống và làm việc ở một thành phố trẻ trung, năng động. Họ không ngừng sáng tạo, đổi mới để hòa nhịp cùng sự phát triển của cuộc sống hiện đại. Nhiều cây bút đã khẳng định sức lan tỏa của tác phẩm trên những phương tiện thông tin đại chúng và tồn tại lâu bền trong lòng của độc giả. Hi vọng, trong thời gian đến, văn học của thành phố chúng ta sẽ có những bước tiến thật dài với sự kế thừa và phát huy của thế hệ cầm bút kế cận, đặc biệt những người viết trẻ đầy nhiệt huyết và giàu sức sáng tạo. Bụi thời gian rồi sẽ phủ mờ lên tất cả nhưng sự tồn tại của những trang viết – trang đời của các tác giả sẽ vượt lên quy luật nghiệt ngã của thời gian, bởi đó là hiện thân của cái đẹp. Như thi hào Alfred de Musset đã viết: “Không gì thật bằng cái đẹp”. Chỉ có cái đẹp mới tạo ra tiếng vang, nỗi ám ảnh và hấp dụ tâm hồn con người.

N.T.T.T

——————————————————————–
* Tác phẩm văn học đoạt giải (2001 -2021), NXB Đà Nẵng

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm