TIN TỨC

Văn học Đà Nẵng: 20 năm một vườn hoa đa sắc, đa thanh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-02-14 11:46:22
mail facebook google pos stwis
407 lượt xem

Nguyễn Thị Thu Thủy

Trên tay tôi là tập sách Tác phẩm văn học đoạt giải (2001-2021) của Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng vừa xuất bản, còn thơm mùi mực mới. Tập sách được trình bày đẹp, trang trọng, dày trên 600 trang với sự góp mặt của 25 tác giả thơ, 19 tác giả văn xuôi, phần nào phản ánh đời sống hoạt động nghệ thuật khá sôi nổi trong 20 năm qua của đội ngũ các nhà văn trên địa bàn thành phố… Nếu ví văn học Đà Nẵng là một dàn hợp âm đang phô diễn khúc ca về con người và cuộc đời thì mỗi nhà văn là một nhạc công tài năng trong nghệ thuật điều khiển ngôn từ. Chính vì lẽ đó, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong lời giới thiệu ở đầu tuyển tập đã có những nhận xét thật tinh tường: “Văn chương Đà Nẵng trong tuyển tập này giống như những tiếng sóng lớp này đến lớp khác kể cho chúng ta bao câu chuyện và bao bí mật của đại dương đời sống”.

Thật vậy, hơn hai thập kỉ qua, các nhà thơ có mặt trong tuyển tập đã thể hiện những bước tiến khá dài. Từ trang thơ của tác giả đạt giải những năm trước, cách diễn ngôn lập ý giản dị, cụ thể thì càng về sau, các cây bút được xếp giải có ý thức cách tân, đổi mới trong cách diễn đạt, thơ đã đi vào chiều sâu với sự đa tầng, đa nghĩa của ngôn từ, hình ảnh. Mỗi nhà thơ hiện diện trong tập sách là một gam màu, một sắc điệu riêng biệt. Nguyễn Kim Huy thường viết những câu thơ dài như văn xuôi nhưng tinh tế trong cảm xúc, dịu dàng với ý vị riêng tư: “Chiều xuống nhẹ như rơi rất chậm/ Mỗi ngày dường luyến tiếc rời xa” (Mùa xuân). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh nhiều thi ảnh đẹp, giàu triết luận về cuộc sồng, con người, là sự trộn lẫn giữa hư và thực, giữa mộng và đời: “Xin đừng vấp tiếng chim kêu/ Vỡ tan giai điệu mùa thu mượt mà trong trẻo/ Đừng để khi trở về nơi vườn hương cũ/ Tiếng chim lạ rồi mất giọng thơ xưa” (Bay mất ánh trăng). Thơ Nguyễn Nho Khiêm mộc mạc, chân chất đậm hồn cốt làng quê, xứ sở, nơi cội nguồn của cảm xúc thơ: “Làm sao đọc được/ câu thơ của núi/ câu thơ bóng xanh/ câu thơ sông xa/ câu thơ cỏ lạ…/ Sau làn khói cánh đồng tháng ba/ Tôi đã gieo xuống đấy/ Ý nghĩ của tôi, tình yêu của tôi” (Bên ngoài cánh đồng). Thơ Hồ Sĩ Bình tựa như một tiếng thở dài nuối tiếc về một thời quá vãng: “Mỗi một bài thơ tôi viết/ Chỉ để lấp đầy nỗi nuối tiếc không nguôi/ Nếu em không nhặt bài thơ lên đọc/ Làm sao biết/ Một nỗi tiếc nuối nơi em/ Bắt đầu đập cánh bay lên” (Nếu như). Trang viết của Nguyễn Minh Hùng chạm trái tim người đọc bởi cái thảng thốt giật mình ẩn đằng sau câu chữ: “Khi bóng tối và nỗi buồn hóa đất/ Thảng thốt quê nhà/ Gieo hạt nắng xuyên qua” (Hạt nắng); Với Nguyễn Nhã Tiên, niềm hoài cổ làng quê với người mẹ lẫn vào mây lam giăng giăng đỉnh núi; người chị gánh nước đêm vang vọng tiếng gàu va vào thành giếng mãi mãi là niềm riêng: “Tôi từ buổi hừng đông đỏ hỏn/ Con mắt đói lòng ngong ngóng sợi tao nôi” (Hồi quang). Và các nhà thơ khác như Trần Tuấn, H’Man, Hoàng Tư Thiện, Ngân Vịnh, Thanh Quế, Hoàng Thanh Thụy, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Văn Tám, Trần Trúc Tâm… mỗi người hiện diện trong tuyển tập với một dáng vẻ riêng. Có năm nhà thơ nữ có mặt trong tập sách này, mỗi người một “nhan sắc” riêng: Phan Hoàng Phương đắng đót trước những nỗi đau của phận nhi nữ, Thụy Sơn với hồn thơ phảng phất nét cổ xưa, Đinh Thị Như Thúy giàu ẩn ngữ nhưng tiềm tàng nội lực thơ, Võ Kim Ngân với nỗi buồn trong trẻo, Vạn Lộc với những bài thơ bốn câu đầy suy tư…Thấp thoáng trên trang viết của các thi sĩ, ta nhận ra sự hòa quyện giữa chất trữ tình và chất tự sự; niềm ý thức về nghề, nỗi trăn trở về thân phận con người giữa bão lốc của cuộc đời, tình yêu và niềm gắn bó máu thịt với cái đẹp, với quê hương cội nguồn. Họ đã ý thức đổi mới thơ bằng việc tạo tính nhạc, thi ảnh mới lạ, cách kết hợp từ ngữ bất thường nhưng hợp lí; tạo sự mới mẻ ở thơ lục bát bằng cách vắt dòng hay linh hoạt khi hài thanh… Tuy nhiên do tác phẩm đoạt giải xếp theo năm nên chất lượng chưa đồng đều vẫn có đôi vần thơ thiên về chất sử thi hào hùng mà thiếu tính đa thanh, đa nghĩa.

Văn xuôi trong chặng đường 20 năm (2001- 2021) ở Đà Nẵng, các tác giả đoạt giải tương đối đều tay. Phần truyện ngắn chiếm dung lượng chủ yếu trong tập sách; nhiều tác giả có cách tổ chức cốt truyện, nghệ thuật tạo tình huống đặc sắc; trần thuật khá lôi cuốn. Đọc tập sách ở phần văn xuôi, dễ nhận ra, các nhà văn không tự giam hãm, bó buộc mình trong khuôn khổ mà mỗi cây bút là một giọng văn, bút pháp và phong cách đa màu đa sắc. Nhiều cây bút có ý thức tiếp cận thi pháp truyện hiện đại. Nếu truyện ngắn của Bùi Công Dụng có cách kể hấp dẫn, ngôn từ phóng khoáng, “bụi bặm” nhưng ẩn đằng sau mỗi câu chuyện là cái nhìn thắm thiết tình người thì trang văn Nguyễn Thị Anh Đào, Quế Hương nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu chất nhân văn. Những lời văn đằm sâu chất triết luận của hai cây bút nữ này luôn để lại ấn tượng trong lòng độc giả trước khi khép lại trang sách: “Ký ức là điều đáng trân trọng và quý giá, hiện tại là cuộc sống thực của mỗi người và tương lai là những điều hôm nay không thể chạm tới” (Vạt cải hình chữ nhật- NTAĐ); “Kết thúc cái này là để bắt đầu cái khác. Không kết thúc mới là bi kịch” (Đáo bỉ ngạn – QH). Bùi Tự Lực, Vĩnh Quyền, Trần Trung Sáng,Trương Điện Thắng, Nguyễn Văn Xuân, Hoàng Minh Nhân, Thái Bá Lợi, Lê Khôi, Nguyễn Thị Thu Sương, Bùi Văn Tiếng… mỗi nhà văn có một cách kể và hấp dụ độc giả theo một cách thức riêng. Tôi ấn tượng với lối kể nhẩn nha nhưng càng về sau càng lôi cuốn người đọc bởi nghệ thuật tạo tình huống trong trích đoạn tác phẩm: “Kỳ nữ họ Tống” của nhà văn Nguyễn Văn Xuân, “Trong vô tận” của Vĩnh Quyền… Mỗi truyện ngắn trong tuyển tập là những bông hoa đầy hương sắc góp cho khu vườn văn xuôi Đà Nẵng thêm phong phú, rực rỡ.Tình yêu cái Đẹp, ý thức cội nguồn, thân phận con người trong chiến tranh và thời bình, sự hòa quyện giữa chất cổ điển và hiện đại được tái hiện khá rõ nét. Tuy nhiên, mảng ký và tản văn, văn xuôi dành cho thiếu nhi còn ít tác giả có mặt; mong rằng trong chặng đường sau, Đà Nẵng sẽ xuất hiện nhiều cây bút đầu tư cho thể loại này được xếp giải, góp phần cho sự phát triển toàn diện của nền văn học nghệ thuật thành phố.

“Tác phẩm văn học tốt sẽ có tác dụng làm cho con người như bừng thức tỉnh, tự nhận thấy rõ tâm hồn mình, thực sự tìm thấy mình” (Nguyễn Đình Thi). Thật vậy, nhìn lại 20 năm phát triển của văn học Đà Nẵng, ta nhận ra một diện mạo mới của đội ngũ người cầm bút sống và làm việc ở một thành phố trẻ trung, năng động. Họ không ngừng sáng tạo, đổi mới để hòa nhịp cùng sự phát triển của cuộc sống hiện đại. Nhiều cây bút đã khẳng định sức lan tỏa của tác phẩm trên những phương tiện thông tin đại chúng và tồn tại lâu bền trong lòng của độc giả. Hi vọng, trong thời gian đến, văn học của thành phố chúng ta sẽ có những bước tiến thật dài với sự kế thừa và phát huy của thế hệ cầm bút kế cận, đặc biệt những người viết trẻ đầy nhiệt huyết và giàu sức sáng tạo. Bụi thời gian rồi sẽ phủ mờ lên tất cả nhưng sự tồn tại của những trang viết – trang đời của các tác giả sẽ vượt lên quy luật nghiệt ngã của thời gian, bởi đó là hiện thân của cái đẹp. Như thi hào Alfred de Musset đã viết: “Không gì thật bằng cái đẹp”. Chỉ có cái đẹp mới tạo ra tiếng vang, nỗi ám ảnh và hấp dụ tâm hồn con người.

N.T.T.T

——————————————————————–
* Tác phẩm văn học đoạt giải (2001 -2021), NXB Đà Nẵng

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm
Nguyễn Ngọc Hạnh - Hồn thơ reo mãi phía làng
Bài viết của Hoàng Thụy Anh và phóng sự ảnh của Nguyên Hùng
Xem thêm
‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn
Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.
Xem thêm
Khối đa diện “Mộng đế vương”
Nhà văn Nguyễn Trường chọn xứ đạo ở Cồn Phụng của ông Nguyễn Thành Nam, đạo vừa vừa, gọi là Đạo Dừa
Xem thêm
Hồn quê trong một sắc thơ miệt vườn
Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang).
Xem thêm