TIN TỨC

Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần 2)

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-08-13 09:54:49
mail facebook google pos stwis
1046 lượt xem

Nhân kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, 100 năm ngày sinh nhạc sỹ Xuân Oanh, báo Tin tức xin trân trọng giới thiệu bài viết vào năm 2015 của tác giả Đỗ Lê Châu, con trai cả của nhạc sỹ Xuân Oanh.

Phần 2: Tuổi trẻ và Cách mạng

"Hồi đó ai chẳng thế," Xuân Oanh thường nói vậy mỗi khi các con hỏi vì sao ông theo Cách mạng. "Khắp cả nước, ai cũng uất hận bọn thực dân Pháp và lũ tay sai. Ai cũng muốn lật đổ chúng. Vì thế chỉ cần có người gợi ý tham gia kháng chiến là theo ngay. Thực ra mọi người chỉ vì yêu nước, muốn cứu nước mà đi theo Cách mạng chứ mấy ai đã hiểu gì về Đảng Cộng sản đâu".

Xuân Oanh theo kháng chiến, theo Cách mạng như một lẽ tự nhiên nối tiếp truyền thống "phản kháng" của gia đình đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ông nội của Xuân Oanh từng là một chí sỹ của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động ở vùng Duyên Hà, nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Phong trào bị đàn áp, giặc vây bắt, cụ chỉ kịp bỏ nhà chạy trốn, kéo theo ba người con trai nhưng thất lạc mỗi người một ngả. Nghe nói ông chạy sang được Trung Quốc nhưng kể từ đó không bao giờ trở lại. Người con trai lớn sau một hồi lẩn trốn cuối cùng cũng trở về quê, lấy vợ, sinh con, định cư ở quê cho đến sau năm 1975 thì đưa cả nhà đi kinh tế mới ở Lâm Đồng. Người con trai út theo cha chạy lên được tới Cao Bằng thì thất lạc. Ông ở lại đó rồi lấy vợ, sinh con. Người con gái út của ông mấy chục năm sau mới tìm về được với họ hàng dưới xuôi. Chị ruột của bà thì lưu lạc sang tận Pháp, phải tới cuối thập kỷ 1980 mới tìm về lại được quê hương. Hoá ra bà lưu lạc sang tận miền Nam nước Pháp. Vậy mà rất nhiều năm sống và công tác ở Paris, Xuân Oanh không bao giờ gặp được người em họ này mà phải chờ tới tận đầu thập kỷ 1990 tại Hà Nội.

Cụ thân sinh ra Xuân Oanh là người con thứ hai. Ông cũng chạy theo cha nhưng bị lạc ở ngay vùng mỏ than Hòn Gai. Lúc đầu ông xin làm phu mỏ cát ở Móng Cái, đến đầu những năm 1920 thì về Quảng Yên làm thợ may, lấy vợ, sinh con. Xuân Oanh là con thứ hai cũng là con trai đầu của ông. Khi Xuân Oanh được hơn 5 tuổi, mẹ ông sinh người con thứ ba thì bị hậu sản, mất luôn cùng người con mới sinh. Túng bấn cùng quẫn, Cha Xuân Oanh buộc phải gửi ông sang người cậu ruột làm nghề câu cá nuôi giúp cho tới khi ông đến tuổi đi học. Vậy nhưng, dù học rất giỏi, cái nghèo đã buộc ông phải nghỉ học sớm để đi làm. Đời làm công đưa ông tới với nhiều nghề, từ đúc kẽm, phu mỏ tới dạy học, đàn hát thuê. Chính điều này cũng giúp nuôi dưỡng chí phản kháng trong ông. Vì thế, khi gặp được những người đồng trang lứa có tư tưởng cấp tiến ở Hải Phòng như Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, ông tìm ngay được sự "đồng cảm đầy lôi cuốn". Khi gặp lại Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội ít năm sau, Xuân Oanh đã là một chàng trai sắp tuổi 20. Được bạn giác ngộ, cung cấp tài liệu nghiên cứu, năm 1944 Xuân Oanh chính thức gia nhập Mặt trận Việt Minh, được phân công làm công tác tuyên truyền cho mặt trận. Tháng 3/1947, ông được Chi bộ Mặt trận phía Nam Hà Nội kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam, 4 tháng trước khi người yêu và là vợ ông sau này cũng được Chi bộ Công an Quận 6 (Hà Nội) kết nạp vào Đảng.

Với Xuân Oanh, vào Đảng tức là ông có thêm điều kiện phục vụ Cách mạng tốt hơn. Lúc này, hoạt động Cách mạng liên tục đã dần biến Xuân Oanh từ một chàng thanh niên phản kháng hồn nhiên, vừa đi biểu tình giành chính quyền vừa viết và phổ biến để mọi người cùng đồng thanh hát vang bài "Mười chín tháng Tám" hừng hực khí thế thành một chiến sỹ chín chắn, hiểu rõ việc làm của mình và luôn tự học với ý thức cao nhất mọi kiến thức, kinh nghiệm để phục vụ Cách mạng. Có thể nói Xuân Oanh đã đến với Cách mạng với tất cả sự cuồng nhiệt, say mê, trong trẻo của một người yêu nước chân thành, một nghệ sỹ và một nhà khoa học bẩm sinh. Và, chính phẩm chất đó đã đưa ông vượt qua mọi thử thách, đôi lúc thực sự khắc nghiệt, ở mọi nơi, mọi lúc, nhất là những tháng năm hoạt động một mình giữa thủ đô các nước tư bản, để đến những ngày cuối đời vẫn có thể tự hào khẳng định lòng trung thành của mình với Đảng, với tổ chức qua việc từ chối viết hồi ký về gần 70 năm hoạt động cách mạng của mình, bất chấp lời mời hậu hĩnh từ nhiều nhà xuất bản nước ngoài và cả mong muốn của bạn bè, con cháu muốn lưu lại những kỷ niệm về cuộc đời sôi nổi, phong phú và đầy trải nghiệm của ông. Hơn thế nữa, ông còn luôn dõi theo bước chân của các con trai, con dâu mà ông rất đỗi yêu quý, mong mỗi đứa đều vững vàng bước chân trong đời và kiên định tiếp bước ông, bà. Ông luôn dặn các con: "Điều quan trọng là làm chủ được bản thân, không tham vọng và không hề ngạc nhiên trước những biến đổi, sống và làm việc vô tư, không ích kỷ, không bon chen, ganh tị, không nhìn người bằng con mắt thiếu thiện chí, như vậy sẽ luôn có hoà bình, yên ổn trong tư tưởng và cuộc sống".

Đó thực sự là cách sống, làm việc của Xuân Oanh trong suốt cuộc đời đi theo Cách mạng. Thuở nhỏ, ông sớm phải bỏ học để đi làm. Khi đã trưởng thành, trong suốt nhiều thập kỷ theo Cách mạng, ông cũng hầu như không được tạo điều kiện để đi học nâng cao trình độ bao giờ. Thường là ông nhường cơ hội đi học cho anh em cán bộ trẻ, nhưng hầu hết các dịp là vì ông phải có mặt để giải quyết công việc cơ quan. Chính vì hoàn cảnh đấy, Xuân Oanh phải luôn tự trau dồi bản thân thông qua nghe, đọc, trao đổi, tiếp xúc. Sức đọc của ông thật phi thường. Mỗi ngày ông có thể đọc hàng trăm trang sách, tài liệu bằng nhiều thứ tiếng. Và ông giữ thói quen này cho đến tận những năm tháng cuối đời. Thú vui tuổi già của ông không phải là trồng cây, nuôi chim, nuôi cá mà là đầu tuần ra các nhà sách ở Tràng Tiền mua hàng túi sách, băng, đĩa nhạc, phim về đọc, xem, nghe suốt tuần. Tiền lương hưu, tiền dịch sách, tiền con cháu biếu ông hầu như chỉ dành mua sách báo, văn hoá phẩm và thiết bị nghe, nhìn. Bạn bè quốc tế hễ có dịp cũng chỉ gửi sách các loại sang cho ông. Đọc đến đâu, ông lại chuyển cho bạn bè và các con đọc tiếp. Vì thế, dù cao tuổi nhất, ông thường lại là người "trẻ nhất" trong mọi cuộc đàm đạo về đời sống văn hoá, nghệ thuật, công nghệ thế giới, thậm chí cả về những bộ "chưởng" mới nhất, hay nhất...

Lòng ham học và ý chí tự học của ông chính là điều bạn bè, đồng nghiệp và cán bộ nhớ nhiều nhất về ông. Tính nhân văn là điều thứ hai ở ông khiến họ nhớ và vì thế mà sau khi về hưu đã tập hợp tôn ông là "Lão Đại" để làm hạt nhân cho mọi hoạt động lúc về già của số anh chị em làm công tác quốc tế nhân dân trước đây. Ông luôn dặn các con, "Làm gì thì làm, các con phải luôn nghĩ đến những người sẽ chịu hậu quả việc làm của mình. Đừng bao giờ làm bất kỳ điều gì mà mình không muốn người khác làm với chính mình". Với bạn bè, đồng nghiệp, cán bộ của ông thì ông không "lên lớp" như thế mà thể hiện thông qua việc làm. Ông quan tâm đến cuộc sống gia đình của họ, nắm chắc và luôn chủ động giúp họ khắc phục được khó khăn để tiếp tục sống và làm việc. Luôn khắt khe với chính mình, nhất là trong các vấn đề chuyên môn, song hầu như ông không bao giờ quở trách người dưới quyền khi họ không hoàn thành nhiệm vụ hay làm hỏng việc do trình độ chuyên môn... Ông thường nhẫn nại hướng dẫn, thị phạm, sửa từng câu, chữ cho cán bộ, cho dù có lúc "gần như phải làm lại từ đầu vì làm từ đầu còn nhanh hơn". Ông hay bảo "dắt tay chỉ việc" là cách nhanh nhất để huấn luyện cán bộ. Với những việc khó, việc gấp, thường thì ông cũng tự tay làm để kịp thời hạn, nhưng vẫn yêu cầu cán bộ làm để "chữa cho họ học". Cán bộ của ông, dù tuổi đời có khi chỉ bằng con ông, không một ai cảm thấy có khoảng cách nào mà chỉ có sự "gần gũi", "hoà đồng", "thông cảm", "đồng cảm" từ ông. Thời kỳ biệt phái trong Quân đội tham gia quản lý phi công Mỹ bị bắt giam ở miền Bắc, ông làm việc với khá nhiều trợ lý là bộ đội từ chiến trường trở về. Phần lớn họ đều còn rất trẻ và hầu như chưa được đào tạo gì để làm công tác với tù binh Mỹ. Vậy nhưng chỉ sau một thời gian ngắn làm việc cùng ông, được ông chỉ dạy, họ đều trở nên say mê công việc. Nhiều người sau chiến tranh đã được Quân đội cử đi học ngoại ngữ và sau trở thành đồng nghiệp của ông trong công tác quốc tế nhân dân...

Theo Đỗ Lê Châu/ baotintuc.vn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đặc điểm của nhân vật tình báo trong tiểu thuyết tình báo, phản gián Việt Nam
Công cuộc Đổi mới (1986) do Đảng khởi xướng đã làm thay đổi diện mạo đất nước trên nhiều phương diện, trong đó có văn học nghệ thuật. Tinh thần đổi mới và giao lưu văn hóa đã làm cho hoạt động văn hóa nghệ thuật nói chung, đời sống văn học nói riêng trở nên phong phú, đa dạng và sôi nổi. Trên văn đàn, các thể loại tiểu thuyết đua nhau nở rộ, trong đó, sự xuất hiện của dòng tình báo, phản gián là một hiện tượng đáng chú ý.
Xem thêm
Bài hát hiếm hoi về sự kiện lịch sử năm 1945 của dân tộc
Thầy giáo tiếng Anh trung học ở TP. HCM Bùi Khánh Nguyên đã sáng tác một ca khúc trang trọng mang tên “Bay lên những linh hồn” dành riêng cho dịp kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh của Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025).
Xem thêm
Mưa đỏ và khoảng lặng của tình yêu
“Mưa đỏ” đã tái hiện trận chiến 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị, nơi người lính vừa kiên cường vừa giàu tình cảm, nhưng những mạch tình yêu trong phim chỉ thấp thoáng, chưa đủ sức vang để cân bằng với khốc liệt chiến trường.
Xem thêm
Sân khấu cho người khiếm thị: Nơi kết nối tâm hồn
Mô hình sân khấu cho người khiếm thị không quá xa lạ với khán giả trên thế giới, thường được biết đến với thuật ngữ “accessibility performance” - biểu diễn tiếp cận, dịch vụ đáp ứng khả năng tiếp cận cho mọi người, bao gồm cả người khuyết tật.
Xem thêm
Linh thiêng và tươi đẹp nơi cột mốc Xà Xía
Hà Tiên là một miền đất xinh xắn, thơ mộng ở cuối trời Tây Nam của Tổ quốc. Miền đất biên viễn này rất ấn tượng, không rộng lớn lắm nhưng địa hình giống như một Việt Nam thu nhỏ. Nơi đây có đủ sông ngòi, hang động, đồi núi, đồng bằng, vũng vịnh, hải đảo… Bởi thế, từ lâu, người ta đã đồn đại, ví von cảnh đẹp ở Hà Tiên tựa như “thiên đường dưới hạ giới”, ngắm vui mắt mà “không chán trong lòng”.
Xem thêm
Thuần khiết và ám ảnh
Là một trong những tiếng nói nữ nổi bật của văn học đương đại Nhật Bản, Ogawa Yoko chạm đến độc giả bằng lối viết dịu dàng, thấm đẫm cảm xúc và chiều sâu tinh tế. Kết tinh thầm lặng chính là kết tinh trọn vẹn của chất văn ấy – thuần khiết, thầm lặng nhưng ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy văn hóa dân tộc
Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về Trạng Trình Quốc Công như sau: “Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn. Ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều môn đệ tiếng tăm lẫy lừng như Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện, Giáp Hải, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Nguyễn Văn Chính… Những người này có sở học đạt đến trình độ uyên bác và đều là danh thần vang tiếng một thời. Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy bóng dáng Nguyễn Bỉnh Khiêm rất lớn, là cây đại thụ che mát cả một khoảng sân rộng của lịch sử và văn học thời kỳ trung đại.
Xem thêm
Những kiếp người đến bờ bên kia...
11 nhân vật với số phận, nghề nghiệp khác nhau, cùng xuôi đến bờ bên kia trên một chuyến đò ngang. Mỗi người đều mang theo nhiều triết lý để nhìn cuộc đời nên vì thế mà con đò cũng nặng trĩu...
Xem thêm
Nguyễn Bắc Sơn: Nhà văn tiên phong trong đổi mới
Nguyễn Bắc Sơn bước vào lĩnh vực tiểu thuyết sau khi đã cho ra mắt hơn mười tác phẩm đủ các thể loại bút ký, tiểu luận, truyện ngắn. Đứng về phương diện nào đó, có thể xem bộ ba tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu - Vỡ vụn - Cuộc vuông tròn là sự tổng kết đời văn của anh.
Xem thêm
Ký ức chiến tranh nhìn từ lăng kính nữ
Chiến tranh không khép lại vào năm 1975 mà tiếp tục vang vọng trong ký ức của những thế hệ di cư. Với thế hệ 1.5, ký ức ấy không đến từ trải nghiệm trực tiếp mà được truyền qua lời kể của mẹ, của bà, của những thân thể mang thương tích lịch sử. Trong Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong không chỉ viết lại ký ức chiến tranh từ bên lề, mà còn khẳng định quyền được kể chuyện của những người từng bị câm lặng. Văn chương, từ đó, trở thành không gian của đối thoại, của tự chữa lành và giành lại bản sắc.
Xem thêm
Một thoáng vui buồn trên cù lao Biện
Từ trạm đèn Biển Sơn nhìn quanh bốn phía chúng tôi thấy bán đảo Biện Sơn (phường Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa) hiện ra giống như một cánh tay khổng lồ vươn về phía biển, ôm gọn vào lòng một vụng nước xanh màu ngọc bích rất đẹp. Cũng trên ngọn đèn biển ấy, chúng tôi trông về phía cầu cảng đang chạy ra xa, phía ngoài vụng nước mênh mông xanh màu ngọc bích, thấy khu kinh tế Nghi Sơn nổi bật lên những khu phố hiện đại với các nhà máy nhiệt điện, nhà máy lọc dầu và nhà máy xi măng, từng nổi tiếng cả nước.
Xem thêm
Về 3 vị tướng vừa được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Bài viết về các anh hùng của Trung tướng Nguyễn Đức Hải
Xem thêm
Hyền thoại cánh diều Hải Thượng Lãn Ông
Bài viết phục vụ Lễ Kỷ niệm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông (1724-2024) và vinh danh Người Danh nhân văn hóa thế giới vào tháng 12/2024
Xem thêm
Tài ứng đối của Mạc Đĩnh Chi khiến triều Nguyên nể phục
Mạc Đĩnh Chi là vị trạng nguyên nổi tiếng thông minh uyên bác. Sinh thời, ông để lại nhiều giai thoại hay, thể hiện tài ứng đối hơn người.
Xem thêm
Trương Tuyết Mai - Nàng thơ mắt ghe bầu & Ra mắt sách Hòa âm đêm
Videoclip hình ảnh tổng hợp về buổi Gặp gỡ, giao lưu với nhạc sĩ, nhà thơ Trương Tuyết Mai
Xem thêm