- Bút ký - Tạp văn
- Lời gửi những bông tuyết – Tản văn của Huỳnh Như Phương
Lời gửi những bông tuyết – Tản văn của Huỳnh Như Phương
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Những bông tuyết đầu mùa rơi nhẹ trên sân bay Sheremetievo-2 ngày đầu tiên tôi đến Moskva. Từ sân bay về trung tâm thành phố, tuyết vẫn bay lửng lơ trên bầu trời ban mai mù xám, bám vào cửa kính xe buýt và những mái nhà trầm lặng hai bên đường trước khi tan chảy.
Sau một ngày tạm trú ở trạm đón tiếp, chúng tôi được chuyển về ký túc xá của Viện Hàn lâm, thường được gọi là Đôm 5 (nhà số 5), ở góc ngã tư đường D. Ulianov và N. Vavilov. Kéo cánh cổng nặng nề để vào bên trong tòa nhà, tôi biết mình sẽ “tu” ở đây suốt bốn năm ròng. Đó là một tòa nhà bảy tầng, có cấu trúc chữ V nhìn ra hai mặt đường của ngã tư; thang máy, phòng ốc đều cũ kỹ nhưng ấm áp nhờ hai lớp cửa kính, lò sưởi và hệ thống nước nóng cung cấp thường xuyên. So với ký túc xá ở nhiều nơi khác, nơi đây thật tiện lợi: có hội trường, thư viện, phòng chơi bóng bàn, mỗi tầng đều có nhà bếp; nhà ăn ở tầng trệt mở cửa từ sáng đến tối với giá cả rất mềm; trạm xe buýt, xe điện và sạp báo ngay trước cổng; bên kia đường là hiệu sách Akademkniga; đi bộ một đoạn ngắn gặp cửa hàng thực phẩm và tạp hóa, đi thêm một trạm xe là bách hóa tổng hợp Moskva cung cấp khá đủ các mặt hàng thiết yếu dù lúc đó nước Nga bước vào thời kỳ đình trệ về kinh tế.
Thầy giáo và học trò năm 1990
Sau này, khi kinh tế mở cửa, người Việt ở Nga bung ra kinh doanh, Đôm 5 bị ít nhiều sự cố, còn thời tôi ở mọi sinh hoạt đều tương đối ổn định, ai làm việc nấy, không va chạm gì nhau. Ban quản lý và các bạn nghiên cứu sinh đến từ các nước cộng hòa đối xử với chúng tôi ân cần và tử tế. Thời gian đầu tôi ở cùng phòng với Nariman đến từ Baku, nhờ anh mà tôi cải thiện được vốn tiếng Nga của mình. Do quan hệ của hai cơ quan nghiên cứu, số người đi học ở đây chủ yếu từ các viện của Hà Nội, nhóm nghiên cứu sinh đi từ miền Nam sống chan hòa với với các đồng môn cùng thế hệ ở miền Bắc, hầu như chưa bao giờ xung đột về quan niệm hay lối sống và vẫn còn giữ liên lạc thân tình cho đến bây giờ. Xuất thân từ ngành Văn, những người đến nghiên cứu hay thực tập cùng thời ở Viện Hàn lâm sau này đều chuyên tâm và có nhiều đóng góp cho nghề nghiệp: Nguyễn Thị Huế, Trần Nho Thìn, Trần Ngọc Vương, Trịnh Khắc Mạnh, Vũ Thanh (văn học dân gian và cổ điển); Phan Trọng Thưởng, Vũ Tuấn Anh, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Bích Thu, Tôn Thảo Miên (lý luận và văn học hiện đại); Lê Sơn và Lê Tây (văn học nước ngoài); Mai Văn Hai, Mai Quỳnh Nam, Vũ Phạm Nguyên Thanh (xã hội học)… Thành ra, đây như là một “viện nghiên cứu” thu nhỏ: trong thời chưa có internet và điện thoại di động, không dễ liên lạc thường xuyên với thầy giáo hướng dẫn, đang viết mà cần kiểm tra kiến thức gì, thì chỉ cần gõ cửa phòng chuyên gia, sẽ được giải đáp. Những đổi mới về đời sống xã hội ở nhà, nhất là sinh hoạt văn hóa văn học, đều được Đôm 5 cập nhập thông tin nhanh nhất. Do sự dễ dãi của nội quy ở đây so với những nơi khác mà Đôm 5 cũng là nơi gặp gỡ các bậc thầy, bậc đàn anh và văn nghệ sĩ từ trong nước sang tham quan hay công tác ở Moskva.
Tôi đã sống qua bốn mùa đông trên nước Nga. Những bông tuyết thơ mộng ngày đầu rồi sẽ thành những tảng băng dày trên lối đi làm trượt bước chân, những cơn gió tuyết quất vào mặt ở trạm chờ xe buýt. Mũ lông, áo bành tô, giày da được trang bị kỹ đến mức nào cũng không ngăn nổi cái rét thấm vào da thịt những người phương Nam chỉ quen nắng ấm. Cùng với đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương không lúc nào nguôi. Có lúc tôi đã tự trách mình, sao lại nông nổi chọn chuyến đi dài ngày này, vì một chút danh vọng hão huyền, để mẹ già và vợ con ở nhà thời đất nước khó khăn. Nhiều khi đi giữa đường phố Moskva mà lòng quặn thắt nhớ câu hát trong bài Thuyền viễn xứ (ý thơ Huyền Chi, nhạc Phạm Duy): Chiều nay gửi tới quê xưa/ Biết là bao thương nhớ cho vừa/ Trời cao chìm rơi xuống đời/ Biết là bao sầu trên xứ người.
Để nguôi mỗi nhớ quê, mỗi năm đến Tết âm lịch, khi Việt Nam đón giao thừa thì cùng lúc ấy, 8 giờ tối Moskva, đơn vị nghiên cứu sinh, thực tập sinh chúng tôi tổ chức một bữa liên hoan hoành tráng ở nhà ăn Đôm 5 mừng năm mới. Chúng tôi vào rừng tìm những cành cây khô, gắn giấy màu thành những nụ hoa đào. Khách mời là các thầy cô giáo và một số bạn bè ở Viện Hàn lâm và trong ký túc xá. Bánh chưng, dưa hành củ kiệu, chả giò, thịt kho, súp gà nấu măng khô, rượu sâm banh, những bài hát Nga – Việt và vài phong pháo lẻ gợi nhớ không khí quê nhà, giúp quên đi nỗi buồn xa xứ.
Thầy giáo N. K. Ghei nay 98 tuổi
Nước Nga cưu mang nhiều người Việt, nhưng thú thật một số người mình cũng làm phiền dân sở tại không ít. Thật may mắn, cho đến ngày rời xứ sở bạch dương, bản thân tôi chưa gặp phải một biểu hiện kỳ thị nào. Ngày đầu nhập học, bước qua khoảng sân đầy tuyết của Viện Văn học thế giới, thường gọi tắt là IMLI, có tượng ông M. Gorky vai phủ tuyết nghiêng đầu nhìn xuống nhân gian, tôi được dành một chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ, nơi những tên tuổi trước chỉ nghe danh, nay mới gặp mặt – những nhà nghiên cứu uy tín trong nghề: N. Ghei, Yu. Borev, G. Belaya, V. Kozhinov, S. Botcharov… Trừ dịp về phép, suốt bốn năm, tôi không bỏ một buổi sinh hoạt khoa học thứ ba hàng tuần nào. Mỗi lần họp như thế là một cuộc thảo luận sôi nổi, có khi dẫn đến tranh luận, nhưng đều mở rộng tầm nhìn trong nghề nghiệp mà tôi theo đuổi. Có những hôm họp xong, thầy trưởng ban A. Mikhailov mời mọi người qua tầng hầm trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô uống cà-phê tiếp tục câu chuyện văn chương.
Thầy giáo hướng dẫn tôi là Giáo sư Nikolai Konstantinovitch Ghei, từng tham gia chiến tranh vệ quốc, sau làm việc ở Viện, đồng thời dạy ở Trường Đại học quốc gia Moskva, đã qua Việt Nam và vào thăm TP. Hồ Chí Minh. Thầy bảo thầy có ấn tượng sâu sắc với văn hóa Việt Nam khi đi thăm các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nước ta. Thầy thường nhắc tôi nên liên hệ những vấn đề lý thuyết hiện đại với văn học dân gian và cổ điển Việt Nam và chê tôi viết luận án theo văn phong phê bình hơn là văn phong nghiên cứu vốn đòi hỏi sự điềm tĩnh, chân phương. Mỗi lần được thầy thông qua một chương luận án, tôi lại tự thưởng cho mình một buổi chiều lang thang trên phố Arbat gần Viện, với một ly kvas kèm thịt nướng sau khi dạo xem các cửa hàng đổ cổ và sách cũ hai bên con đường lát đá như còn in dấu chân của các nhân vật trong tiểu thuyết Những đứa con phố Arbat của A. Rybakov.
Hàng năm, vào cuối tháng tư, tuyết bắt đầu tan, trên các ngả đường thành phố người ta trồng hoa mới trong các bồn hoa, dọc các vỉa hè. Trong rừng Nga cây đâm chồi và xanh lên từng ngày, vạn vật như sống lại trong màu áo mới. Anh Trần Nho Thìn và tôi cặm cụi trong phòng đọc của Viện Thông tin Khoa học xã hội, nơi mượn sách nhanh và có chỗ ngồi thuận tiện hơn Thư viện quốc gia. Bên ngoài, gần quảng trường J. Tito, là vườn hoa rực rỡ trong nắng xuân. Lo viết luận án không kịp, chúng tôi ngắm hoa qua cửa kính và chỉ rời trang sách trong giờ ăn trưa.
Sang hè, tôi kịp nộp luận án và làm thủ tục đúng hạn để chờ bảo vệ. Phòng quản lý nghiên cứu sinh thưởng cho tôi một phiếu đi nghỉ ở thành phố Sochi bên bờ Biển Đen. Nhưng tôi xin đổi món quà đó để lấy một giấy phép mời vợ và hai con sang thăm nước Nga. Đó là một chuyến đi nhiều kỷ niệm đẹp của gia đình tôi. Sau đó ít lâu, bảo vệ xong, tôi giã từ xứ sở bạch dương cũng vào một ngày tuyết đầu mùa rơi nhẹ nhàng nhưng sân bay thì hỗn loạn, báo hiệu những biến động sắp xảy đến trên đất nước Nga.
Ba mươi năm qua, tôi vẫn giữ liên lạc với những người thầy và bạn Nga ngày ấy. Anh Bùi Mạnh Nhị và tôi có dịp tiếp giáo sư N. Nikulin, nhà Việt Nam học hàng đầu, ở Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến đi Việt Nam cuối cùng trước khi ông từ trần. Thầy N. Ghei nay đã 98 tuổi, ngoài những chuyên khảo sâu sắc về nghệ thuật ngôn từ, thầy còn công bố một tác phẩm tự truyện mà thầy gọi là “tiểu thuyết – tưởng niệm”, viết về số phận con người qua những biến thiên lịch sử. Bà Inessa Zimonina, người làm luận án về Chinh phụ ngâm và đã nhiều lần sang thăm Việt Nam, dịch giả tài năng đã chuyển ngữ tác phẩm của Khái Hưng, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Đoàn Giỏi, Thu Bồn… sang tiếng Nga, sau vài năm cùng chồng qua sống ở Israel, đã trở về Moskva vì hai người đều nhớ nước Nga. Anh Anatoli Sokolov, người bạn chung thủy với văn học Việt Nam, chuyên gia về Phan Bội Châu, vẫn tiếp tục nghiên cứu về giao lưu văn hóa Nga – Việt và có những phát hiện thú vị về những người Nga đầu tiên đến Sài Gòn. Hầu như tháng nào anh cũng gửi email hay gọi điện thoại cho tôi. Trong một lá thư gần đây, anh viết: “Tôi vừa nghe tin ở Việt Nam xuất hiện lại một số ca nhiễm coronavirus trong cộng đồng nhưng đã kịp thời kiểm soát được và chưa phải áp dụng lại biện pháp giãn cách xã hội. Thật mừng cho đất nước anh. Ở Nga số ca nhiễm Covid-19 vẫn còn nhiều, nhưng rất may là trước khi mùa đông đến, vaccine đã được sản xuất kịp thời để ưu tiên chủng ngừa cho những người có nguy cơ cao như bác sĩ, y tá, người già. Tôi đã chuyển ra ngoại thành ở hẳn với mẹ tôi để chăm sóc cho bà, lúc nào cần mới vào thành phố để đến Viện Đông phương học. Tôi vẫn theo dõi thường xuyên sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam và tìm đọc thông tin về sách mới xuất bản. Gần đây tôi có hứng thú đọc truyện trinh thám Việt Nam và dự định sẽ viết một khảo luận về đề tài này…”. Mỗi lần nhận thư A. Sokolov tôi lại thấy nước Nga như gần lại, dù đã 30 năm xa.
Ra Hà Nội, thỉnh thoảng tôi được bạn cũ Đôm 5 mời ăn ở quán Nga để nhớ lại hương vị xalát, xúc xích và súp bắp cải Nga thời đi học. Đến Nha Trang và ngay ở Sài Gòn vẫn có thể tìm thấy những nhà hàng ẩm thực Nga rất ngon. Chỉ có những bông tuyết là không thể nào tìm lại được.
Nhưng những bông tuyết đầu mùa năm ấy vẫn bay hoài trong trí nhớ.
Nguồn: https://vanvn.vn/