TIN TỨC

Ngã Ba Đồng Lộc trong trái tim ta

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-30 18:12:33
mail facebook google pos stwis
1115 lượt xem

 (Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong đời mỗi con người ta bắt gặp biết bao ngã ba. Có ngã ba của những con đường gặp nhau trên mặt đất, có ngã ba nơi hội tụ của sông lớn, sông con. Có ngã ba nơi gặp nhau của những dòng văn minh đông, tây, kim, cổ. Một dân tộc, một con người cũng có khi đứng trước một ngã ba vận mệnh. Nhưng chẳng có nơi nào trên mảnh đất hình chữ  S này lại có một ngã ba làm bằng xương máu của mười cô gái tuổi từ 18 đến 22. Đó là ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh).

Tượng đài di tích Ngã Ba Đồng Lộc

         Nhà thơ Huy Cận đã có bài Ngã ba Đồng Lộc (1971) viết sau sự ra đi của các cô bằng một giọng vừa trữ tình đằm thắm, vừa triết lý sâu xa: “Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống/ Hay bằng đá, bằng đất/ Bằng xi măng cốt sắt/ Bằng vôi trắng gạch xây/ Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu/ Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã/ Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu”. Nơi đây mỗi mét vuông đất phải hứng chịu ba trái bom bự. Chị Võ Thị Tần đội trưởng thanh niên xung phong của các cô, chuyên lấp hố bom. Chị La Thị Tám chuyên phát hiện bom nổ chậm, nhiều khi tự nguyện làm một cọc tiêu sống đứng cắm cờ canh bom để dẫn đường cho xe ra tiền tuyến. Đôi chân các cô còn nhanh hơn kíp nổ. Nhiều nhà thơ đã xem Ngã ba Đồng Lộc là ngã ba trái tim, là huyết mạch giao thông không thể để tắt nghẽn trên con đường xe chạy vào Nam. Nhà thơ Xuân Hoàng đã bắt gặp một sắc màu đẹp giữa tuyến lửa đầy bom đạn này:

                 Có phải rừng xanh vắt trên tuyến lửa

                 Cho ngã ba này một sắc hồng sen

Nhà thơ Trần Mạnh Hùng trong một Chiều qua Đồng Lộc đã thắp nén nhang tưởng niệm thay lời ru gửi tới các cô:

              Chói chang nắng lửa chiều hè

        Ngã ba Đồng Lộc anh về thăm em

              Hương thầm ai mới đốt lên

        Gió Lào thổi héo tóc mềm cỏ nâu.

Hương thơm vẫn tỏa ngát suốt ngày đêm trên mười ngôi mộ. Tương truyền rằng những ai qua đây, thắp nhang khẩn cầu đều được hồn thiêng của các cô nâng bước, những ai chưa chồng chưa vợ tới cầu mong đều được chim liền cánh, cây liền cành. Các cô ra đi giữa độ tuổi đang yêu với bao ước mơ xanh và lý tưởng đẹp. Nhưng hại thay! Bom Mỹ đã cắt ngang, vùi lắp. Bởi thế hồn trinh của các cô vẫn tỏa sáng ban phát và vun đắp tình yêu cho biết bao lứa đôi hò hẹn. Trong bài “Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc” nhà thơ Đồng Đức Bốn cảm thấy như mười ngôi mộ ấy được xây bằng tiếng chim ca bên trời chứ không phải bằng gạch, đá, xi măng, vôi vữa nữa. Và hình như các cô vẫn lẫn quất đâu đây như người đi vắng một lát thôi:

    Cầm cỏ thì thấy mồ hôi

    Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng.

Sự sống vẫn phập phồng, vẫn tỏa hương trên đất Mẹ. Nhà thơ Bùi Văn Bồng  lặn lội từ Thanh Hóa vô Can Lộc, Hà Tĩnh  để viếng mộ các cô và cảm nhận sự trinh trắng:

 Mười làn môi chưa một lần hò hẹn

 Mãi trẻ trung cô gái ngàn năm

 Mười mái tóc chưa trai làng nhẹ vuốt

 Mãi xanh cùng cây lá Trường Sơn. 

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến như gặp lại các em giữa chiến hào khói lửa cháy bỏng:

 Các em đi khi mười tám tuổi xuân

 Và để lại những trái tim trong trắng

 Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa

 Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong.                                                 

       Trong trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái”, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đã phác thảo dáng đứng hiên ngang của người con gái làm cọc tiêu báo bom nổ chậm, lồng lộng như  bà Nữ Oa đội đá vá trời trong thần thoại, vừa mang vẻ đẹp  thánh thiện vừa rất trần thế : 

 Em cấy vào đêm sự sống mong manh mùi con gái

 Với những hàng tiêu bằng thân thể trắng ngần

 Những vầng ngực rời nơi trú ẩn

 Kéo trăng về bên hút bom câm…

 Các em đang ngồi trên cỏ xanh hay đang gieo hạt ? Các em chơi với gió, với trăng hay đang đùa giỡn trên đồng cỏ hoa vàng ? Các em không bao giờ chết cả. Bởi các em đều nhận ra chân lý Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Em bất chấp mọi bi kịch, mọi sự  nghiệt ngã của chiến tranh, và thanh thản:

 Khoảng trời xanh nằm yên trong lòng đất

 Đêm đêm tâm hồn em tỏ sáng

Những vì sao ngời chói lung linh 

      (Khoảng trời và hó bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).

 Ai đã một lần qua ngã ba Đồng Lộc cũng nghĩ về một Cung đường con gái như nhà thơ Lê Mạnh Tuấn đã viết về các cô :

 Tuổi xuân về nghĩa trang rồi

 Cứ mong mỗi ngày trở lại

 Hoa rừng hái đặt lên môi  

Các cô đã ngã xuống để góp phần làm nên một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” (Lê Anh Xuân).

          Hai mươi bốn năm sau kể từ ngày các cô đi vào cõi vĩnh hằng, nhà thơ Mai Văn Phấn đã có bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc thành kính dâng lên. Bài thơ đạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1995. Chỉ vẻn vẹn có mười câu lục bát như ứng với mười nén nhang của tâm cảm:

Tháng ngày gương lược về đâu

Chân trời để xõa tóc màu cỏ non

Các cô nằm lại trên cồn

 Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

 Khăn thêu những dấu tay gày

 Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời

Người ơi, tôi gặp lại người

 Hơi bom vẫn thổi rụng rời cát khô

 Nhang này quặn nỗi đau xưa

 Tôi này tôi của cơn mưa về nguồn.

         Mười câu thơ chia làm năm khổ, mỗi khổ chỉ hai câu như kiểu thơ hai-ku của Nhật, nén nỗi đau lại để cho những giọt nước mắt lặng rơi đều đều như năm nốt nhạc viếng hồn tử sĩ. Các chi tiết hữu hình như gương lược, bồ kết, khăn thê, cỏ xanh… cứ tràn ngập nhựa sống tuổi trăng tròn. Nhưng rồi tất cả lại rơi vào thinh không, tĩnh lặng. Và ở đây chỉ có cỏ xanh ngắt như mái tóc thề của các cô, chỉ có mây trắng bồng bềnh như  chiếc khăn thêu mà các cô chưa kịp gửi tặng người yêu. Và đâu đây ta vẫn ngưởi thấy mùi ngai ngái của đất pha lẫn mùi khói bom  giữa cát bụi khô rang sau mỗi trận gió Lào. Nhà thơ nguyện làm một cơn mưa về nguồn mong làm dịu bớt nỗi đau cháy bỏng của chiến tranh và làm mát lòng các cô nơi chín suối. Đó cũng là nghĩa tình uống nước nhớ nguồn , mà nhà thơ đã nói hộ chúng ta.

Đã có hàng trăm bài thơ của các tác giả chuyên và không chuyên viết về Ngã ba Đồng Lộc, viết về mười cô gái hồn trong như suối tưới. Âm hưởng chung của các bài thơ là một giai điệu buồn lắng nhưng không bi lụy. Ở một số bài vẫn tạo được không khí trầm  hùng, bay bổng của một bản anh hùng ca theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của một thời oanh liệt, như các bài: “Ngã ba Đồng Lộc” của Huy Cận, “Cung đường con gái” của Lê Mạnh Tuấn, trường ca “Những tấm bia khắc tên con gái” của Nguyễn Hữu Quý, “Khoảng trời và hố bom”của Lâm Thị Mỹ Dạ, “Viếng em” của Bùi Văn Bồng… Nhiều bài, nỗi đau lắng vào chiều sâu pha chất ngậm ngùi nhưng không thiếu chất lạc quan như các bài của Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn, Trần Mạnh Hùng, Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Chiến…

         Ngợi ca sự bất tử của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc cũng chính là ngợi ca lòng dũng cảm, đức hy sinh cao đẹp của phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại. Có lẽ chẳng có thơ văn nào, giai điệu nào, màu sắc nào diễn đạt được hết sự hy sinh thầm lặng, cao quý của các cô. Mỗi chúng ta hãy cùng nhà thơ Trần Mạnh Hùng hành hương về Đồng Lộc:

             Anh về Đồng Lộc, em ơi

   Nén nhang tưởng niệm thay lời hát ru…

 

                                             Lê Xuân

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chuyện “trên đường”...
Nguồn Văn nghệ số 20/2023
Xem thêm
Hơn cả hạnh phúc
Nguồn: https://nhandan.vn/
Xem thêm
Tháng ba ở Tây Nguyên
Bút ký của NGUYỄN TRƯỜNG trên Văn nghệ số 13 (01/4/2023)
Xem thêm
Ai về nơi ấy cho tôi biết…
Ký của Nguyễn Ngọc Hải
Xem thêm
Khi đã vượt giới hạn
Nguồn: Lao Động cuối tuần
Xem thêm
Tôi là con dâu xứ Nẫu
Elena Pucillo là nhà văn người Italia, từng dạy tiếng Pháp và văn minh Pháp tại ĐH Milano, Italia. Hiện bà đang dạy tiếng Italia tại Nhạc viện TP Hồ Chí Minh và văn hóa Pháp tại trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. Bà sáng tác truyện ngắn, tùy bút, tản văn bằng tiếng Italia. Tác phẩm của bà đến với bạn đọc việt nam nhờ những bản dịch tiếng Việt của chồng là nhà văn Trương Văn Dân.
Xem thêm
Hoàn thiện - một hành trình nhọc nhằn
Sự tiếp nối và sự hoàn thiện là một hành trình nhọc nhằn, quá đỗi nhọc nhằn.
Xem thêm
Với nhà thơ Giang Nam | Hồi ký của Trần Thị Thắng
Bài viết rút từ tập “Con chữ soi bóng đời”, in năm 2005.
Xem thêm
Mộng đào xuân giữa Hà Nội phố
Một e ấp nụ chúm chím đôngHai mê hoặc hoa hư ảo hồng
Xem thêm
Vượt qua mùa thương đau
Bài đăng trên Thời Nay (Nhân Dân)
Xem thêm
Gã Phục điên từ bao giờ?
Tôi viết những dòng này không nhắm “rủa” ông bạn vàng của tôi- nhà văn Nguyễn Khắc Phục. Cũng không nhắm biện minh cho những gì anh đã và đang nói; đã và đang làm hôm nay.
Xem thêm
Mùa đông, tản mạn về cha tôi - Tản văn của Nguyễn Văn Ngọc
Chiều nay, chiều mùa đông đầu tiên, tôi rảo bước trên con đường quen thuộc mà ngày xưa cha tôi đi dạy học thường qua đây. Ngọn gió mùa đông khua trên hàng cây thưa thớt, bứt tung lá vàng còn sót lại của ngày thu, gom nhặt về phía cuối đường. Ký ức mùa đông lại ùa về thăm thẳm trong hồn tôi với bóng hình người cha dắt bao mùa đông lầm lũi, buốt giá đi sau chiếc xe đạp đã cũ đến trường.
Xem thêm
Người dưng ở Sài Gòn
Phương chết! Ba thằng khóc nhiều. Mà đâu phải họ hàng ruột thịt gì, chỉ là người thuê và chủ nhà cho thuê.
Xem thêm
Thương mái đình quê – Bút ký Thanh Tuân
Làng tôi đi qua mưa gió. Nghiêng nghiêng thời gian đổ rêu xuống mái đình. Nghiêng nghiêng tình yêu nhóm lên ngọn khói trầm thơm thơm mái đình. Nghiêng nghiêng nỗi nhớ của người con tha phương gởi về mái đình chốn cố quận.
Xem thêm
Lời gửi những bông tuyết – Tản văn của Huỳnh Như Phương
Những bông tuyết đầu mùa rơi nhẹ trên sân bay Sheremetievo-2 ngày đầu tiên tôi đến Moskva.
Xem thêm
Giỗ bạn - Bút ký Trần Ngọc Phượng
Mọi năm vào ngày 27/7 hoặc 30/4 anh em bạn lính hay tập trung về nhà anh Khảm Long Khánh để họp mặt và làm mâm côm giỗ bạn. Những năm gần đây trên bàn thờ đặt thêm con heo quay. Giỗ chung cho tất cả bạn bè đã hy sinh trong chiến tranh Bao nhiêu người đã bỏ mình trong rừng sâu, chết vì đánh nhau với giặc, chết vì pháo bầy B52, vì bị địch càn quét , phục kích, chết vì sốt rét ác tính, vì cây đè lũ cuốn…
Xem thêm
Chim câu tung cánh
Bút ký của Nguyễn Trường trên báo Văn nghệ số 45 (ngày 5-11-2022)
Xem thêm