TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay

Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-31 13:35:41
mail facebook google pos stwis
699 lượt xem

Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.

Ảnh minh họa

Không phải ngẫu nhiên có Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương và các chi hội tại các Hội VHNT địa phương (cấp tỉnh). Không phải ngẫu nhiên có các báo, tạp chí chuyên ngành về lý luận phê bình văn học, nghệ thuật.

Và, một bài giảng chất lượng, nhất là bộ môn ngữ văn phải có tính lý luận.

Thế nào là một bài giảng về tác phẩm văn học có tính lý luận?

Tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay một tập thể  sáng tạo nên nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người và biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật. Tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm cố định. Nó mang tính lịch sử, đa nghĩa, nó có sự biến đổi về văn bản và có sự khác nhau trong cảm thụ của người đọc ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau.

Tác phẩm văn học còn là một hệ thống chỉnh thể. Tính chỉnh thể đó được xem xét chủ yếu trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của một tác phẩm. Bên cạnh đó, các chức năng của văn học như chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ… cũng thuộc phạm trù lý luận văn học.

Một bài giảng có tính lý luận là bài giảng vận dụng sáng tạo, không khuôn mẫu, không khiên cưỡng, gò ép, không sơ cứng các kiến thức LLVH vào bài giảng của mình, giúp học sinh hiểu sâu kiến thức trong tính chỉnh thể, có chiều sâu. Đó là các bài giảng mà giáo viên hướng dẫn học sinh sao cho học sinh chủ động tiếp cận kiến thức và chủ động thể hiện năng lực, phẩm chất vốn có cũng như phẩm chất cần hướng tới. Tại bài giảng đó, giáo viên có cách hướng dẫn các em đặt bài học trong tính chỉnh thể của hệ thống, ví dụ học Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” thì cần đặt trong hệ thống các tác phẩm của Thạch Lam, làm rõ phong cách Thạch Lam: Truyện không có cốt truyện, truyện mang tính trữ tình, truyện không lấy ngôn ngữ, hình ảnh bên ngoài làm chính mà thường khơi gợi suy nghĩ, đi vào thế giới chiều sâu bên trong của con người một cách nhẹ nhàng và tinh tế. Học thơ tình Xuân Diệu phải hiểu Xuân Diệu là “ông hoàng của thơ tình yêu”, là người luôn “khát khao giao cảm với đời” theo cách riêng: vồ vập, đắm say và trân trọng, níu giữ từng khoảnh khắc hiện diện trên cõi đời này. Khai thác ngôn từ trong thơ Xuân Diệu phải là những động từ, tính từ bộc lộ cảm xúc và hành động mạnh mẽ…

Bên cạnh việc đặt tác phẩm trong hệ thống, trong mối quan hệ với chỉnh thể, trong việc làm nổi bật phong cách tác giả vì tác phẩm luôn là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan mà tác giả miêu tả thì còn cần khai thác các chức năng vốn có của văn học, tiêu biểu như nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ. Ví như học truyện Thạch Lam sẽ yêu làng quê bình dị mà đằm sâu tình cảm (tình bà cháu, tình bạn ở ngưỡng cửa tình yêu… trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan) hay học thơ tình Xuân Diệu thì phải thấy được việc trân trọng từng phút giây của cuộc sống, yêu con người, yêu thiên nhiên với tình yêu ở độ đắm say, mãnh liệt (qua bài thơ Vội vàng…). Điều đó nhân lên năng lượng sống cho con người có thái độ và trách nhiệm sống tích cực hơn. Khi nói về tính đa nghĩa của ngôn từ trong tác phẩm, hay tính lịch sử của tác phẩm cũng chính là bàn đến tính lý luận trong tác phẩm văn học. Tính đa nghĩa cho ta nhìn nhận đa chiều để hiểu sâu điều tác giả gửi gắm qua ngôn từ. Tính lịch sử cho thấy đặt tác phẩm đúng thời kỳ, đúng giai đoạn lịch sử thì tác phẩm phát huy tối đa giá trị cần có. Ví như tác phẩm “Từ ấy” của Tố Hữu, giúp học sinh hiểu bài thơ thì ngoài việc hiểu phong cách thơ Tố Hữu, ngoài việc khai thác các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu… nhằm biểu đạt hạnh phúc của chủ thể- của người chiến sỹ cộng sản khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, còn cần phải cung cấp cho các em kiến thức lịch sử, bối cảnh ra đời tác phẩm vì thế hệ học sinh bây giờ khác xa những năm đầu của thế kỷ XX.

Như vậy, nếu chỉ hướng học sinh khai thác ngôn từ hiện diện và gói gọn trong tác phẩm thì không thể giúp học sinh hiểu sâu thông điệp được chuyển tải qua ngôn từ của tác giả. Đồng nghĩa với việc bài giảng đó kém tính lý luận.

Về phía học sinh, khi học trung học cơ sở (THCS), và khi mới bước vào đầu cấp trung học phôt thông (THPT) thường các em chưa viết được bài văn mang tính lý luận. Vậy, thế nào là một bài viết của học sinh mang tính lý luận?

Bài viết văn của học sinh có giá trị không đơn giản chỉ là bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát, đủ ý chính mà còn phải biết liên hệ với các tác phẩm khác cùng chủ đề; đặc biệt, còn cần có tính lý luận, đó là phân tích nhân vật thì cần hiểu và làm nổi bật được nhân vật điển hình, phải hiểu nguyên mẫu và tính đại diện của nhân vật điển hình. Ví như học về nhân vật Chí Phèo nếu chỉ thấy nhân vật lập dị, nhân vật có hành động như kẻ say, kẻ điên thì chưa khai thác được giá trị vốn có của tác phẩm. Chí Phèo có nguyên mẫu ngoài đời, Chí Phèo hành động như kẻ điên nhưng ẩn sâu trong hình hài ấy là một tâm trạng phẫn uất đến cùng cực. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho một bộ phận nông dân thời đó. Nhà phê bình văn học Nga Bê-ê-lin-xki viết: “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói được rằng: Tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Vâng “Người lạ đã quen biết”, Chí Phèo là một điển hình, tính cách nhân vật này là tổng hợp nhiều nét tính cách của các nhân vật bị bần cùng hóa, bị tha hóa trong xã hội. Nói cách khác, nhà văn đã lựa chọn những nét tiêu biểu của một số nguyên mẫu ngoài đời để tổng hợp nên một nhân vật điển hình. Xã hội thời Chí Phèo sống có thể không có một nhân vật y hệt Chí Phèo, nhưng có nhiều người bất mãn mà say, có người vì say và bị cộng đồng xa lánh mà lấy rượu và tiếng chửi làm bạn đồng hành, có người sinh ra bị bỏ rơi đâu đó tựa cái lò gạch bỏ hoang.v.v…

Hoặc phân tích, bình giảng câu thơ, bài thơ phải chú ý trước hết là câu thơ, bài thơ đó, đồng thời cần phải biết rõ các đặc điểm mang tính lý luận như bố cục, nội dung, hình thức, đặt trong mối quan hệ không thể tách rời giữa các yếu tố nội dung, hình thức. Khái quát về giá trị tác phẩm cần đánh giá cả hai mặt hình thức và nội dung; tác phẩm đạt được các giá trị khi hướng tới chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ như thế nào…. Khi nói về từng yếu tố, lối diễn đạt phải tự nhiên, không gò câu ép chữ, không khiên cưỡng. Muốn hiểu rõ câu thơ “Đưa người ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng” nhất định phải đặt câu thơ trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, đặt trong bối cảnh sáng tác, hoàn cảnh lịch sử chi phối thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ trong phong trào thơ mới. Hoặc câu thơ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” chỉ có thể được hiểu sâu sắc khi đặt nó trong cả bài thơ “Vội vàng” và trên cơ sở nắm bắt được phong cách thơ Xuân Diệu.v.v…

Thực tế hiện nay, học sinh THCS và học sinh khi mới vào lớp 10 tại các trường THPT thường làm văn rất thiếu hoặc không có tính lý luận. Bài biết của các em chủ yếu bám vào câu, chữ trong tác phẩm văn học cụ thể, trong đề bài cụ thể; chưa biết đặt tác phẩm hoặc câu, đoạn trong chỉnh thể, chưa gắn được với lý luận văn học. Thậm chí còn một bộ phận không nhỏ học sinh học thuộc bài giảng của thầy cô hoặc bài tham khảo sao chép trên mạng Interet. Nhiều em do nguyên nhân không thích học văn; không phải môn thi đại học… và nhiều em là do hổng kiến thức hoặc chưa biết phương pháp học tập môn Ngữ văn sao cho đạt hiệu quả.

Tôi luôn có niềm tin rằng nếu giáo viên dạy Ngữ văn làm cho học sinh yêu thích bộ môn của mình thì khó mấy học sinh cũng làm được. Để có được bài văn mang tính lý luận cho học sinh thì giáo viên cần ý thức sâu sắc về điều đó để rèn cho các em khi viết bài. Các trường đại học cũng dạy dỗ bộ môn này kỹ lưỡng hơn và căn dặn sinh viên về vai trò của các em trong sứ mệnh “trồng người”. Bộ môn Ngữ văn sẽ trở nên giá trị hơn rất nhiều khi mỗi bài giảng của thầy cô và mỗi bài viết văn của học trò đều có tính lý luận,

                                                 Việt Trì 22/7/2 023

                                        Đỗ Nguyên Thương

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm