TIN TỨC
  • Văn chương thế giới
  • Về chủ đề tính dục trong tiểu thuyết của Gabriel Garcia Marquez và Mario Vargas Llosa

Về chủ đề tính dục trong tiểu thuyết của Gabriel Garcia Marquez và Mario Vargas Llosa

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-08-05 10:00:02
mail facebook google pos stwis
1431 lượt xem

Gabriel Garcia Marquez và Mario Vargas Llosa. Họ là một cặp đôi nhà văn làm hao tốn nhiều giấy mực của giới nghiên cứu bởi vì mối quan hệ thuộc về văn học và ngoài văn học của hai ông. Marquez và Llosa từng là đôi bạn than đồng điệu và gắn bó với nhau sâu sắc, thế rồi họ lai rời xa nhau trong 30 năm thù hằn. Những nét tương đồng và những sự mâu thuẫn đến đối nghịch ở con người và văn chương họ cho thấy rõ tính thống nhất bền vững của nền văn học một giai đoạn rực rỡ

Vào cuối thập niên 50, Jorge Amado – nhà văn nổi tiếng nhất của Brazil, được tôn xưng là bậc hiền nhân đã cho xuất bản Gabriela, Nhành quế và hoa đinh hương. Cuốn này khi ra mắt công chúng đã bị nhiều người cho là “quá hoa mỹ kỳ cục, quá dâm dục, quá nhiều truyền thống dân gian” [1].

Tác phẩm là một câu chuyện tình đầy đam mê cho đến chữ cuối cùng của quyển sách, giữa cô gái Gabriela nồng nhiệt, xinh đẹp, cơ thể tỏa ra mùi quế và hoa đinh hương với Nacib Saad, chủ một quán rượu phát đạt. Khi Nacib ra chợ nô lệ tìm đầu bếp mới, anh đã gặp nàng Gabriela. Chuyện tình kì lạ mà cũng rất chân thật của họ đã bắt đầu, mang hương vị lạ lùng, đậm đà và quyến rũ như vị đặc sánh của cacao ở vùng Brazil. Đó là những con người ồn ã, ham muốn vật chất, lúc tầm thường lúc cao quý, nhưng trên hết họ đã “yêu” nhau đầy bản năng. Chính điều đó mà bên cạnh những lời khen, nhà văn hồn hậu của Mỹ Latinh bị chỉ trích nặng nề vì nặng tính “dâm dục”.

Trường hợp này cũng rơi vào không ít nhà văn ở đỉnh điểm của giai đoạn thịnh vượng từ thập niên 1960 đến 1980, tiêu biểu là hai tác giả được mệnh danh là “hai con sư tử của trào lưu Latin American Boom” (trào lưu Bùng nổ): Gabriel Garcia Marquez và Mario Vargas Llosa. Họ là một cặp đôi nhà văn làm hao tốn nhiều giấy mực của giới nghiên cứu bởi vì mối quan hệ thuộc về văn học và ngoài văn học của hai ông. Marquez và Llosa từng là đôi bạn than đồng điệu và gắn bó với nhau sâu sắc, thế rồi họ lai rời xa nhau trong 30 năm thù hằn. Những nét tương đồng và những sự mâu thuẫn đến đối nghịch ở con người và văn chương họ cho thấy rõ tính thống nhất bền vững của nền văn học một giai đoạn rực rỡ. Trường hợp này khiến ta liên tưởng đến cặp đôi Sartre và Camus của văn học Pháp. Nếu thiếu một trong hai người, sẽ thật khó có một trào lưu hiện sinh Pháp độc đáo như ta biết hiện nay.

Marquez và Llosa đã mang về cho châu lục Mỹ Latinh hai giải Nobel văn học năm 1982 và năm 2010. Đến từ hai quốc gia khác nhau nhưng Marquez và Llosa có những chủ đề và cấu trúc nghệ thuật giao thoa nhau rõ nét. Một trong nét tương đồng đặc biệt giữa họ trên trang viết là chủ đề tính dục – thông thường là những trường hợp tính dục lệch chuẩn, luôn gắn với nỗi cô đơn định mệnh mang đặc trưng của khu vực văn học đầy bản sắc. Tiểu thuyết của Marquez và Llosa từng bị hoài nghi là “truyện khiêu dâm” bởi những chi tiết về tình yêu thể xác với màu sắc hoang dã. William Boyd, đạo diễn chuyển thể cuốn Dì Julia và nhà văn quèn của Llosa thành phim điện ảnh nhận xét: “Vargas Llosa liên tục thiết lập các hình ảnh tình dục và quan hệ tình cảm giữa nam và nữ”. Trước đó, khi viết tiểu thuyết Căn nhà xanh (The Green House, 1966), ông đã mạnh mẽ miêu tả một nhà thổ giữa rừng như là “một tổ chức trung tâm trong đời sống Mỹ Latinh” [2]. Marquez cũng mang ám ảnh này khi viết về chủ đề tính dục lệch chuẩn trở đi trở lại trong Trăm năm cô đơn, Tình yêu thời thổ tả, Hồi ức những cô gái điếm buồn của tôi…

Dễ dàng thấy, tiểu thuyết Mỹ Latinh xuất hiện rất nhiều cảnh tính dục, tần số cao và miêu tả hết sức “chân thực”, đến độ nhắc đến Mỹ Latinh, người ta nghĩ ngay đến một nền văn học nồng nàn dục tính. Không ít nhà nghiên cứu đã “yên tâm” nhận định đây chính là đặc trưng của văn học Mỹ Latinh.

Trong bài viết “Về những cảnh tình dục trong tiểu thuyết Mỹ Latinh”, nhà nghiên cứu người Nga Inna Terteryan nhận xét: “Tất cả những cảnh tình dục đó, tất cả những cái mà chúng ta quen gọi là khiêu dâm đó, ở trong tiểu thuyết Mỹ Latinh đều gắn với cốt truyện, mà tuyệt nhiên không phải gắn một cách sơ sài, do đó không thể dễ dàng vứt chúng đi được” [3]. Ông khẳng định thêm: “Nếu coi khiêu dâm trong tiểu thuyết Mỹ Latinh như là sự nhượng bộ thị hiếu thị dân hay như “phong vị lạ nhiệt đới”, chúng ta sẽ có nguy cơ bỏ rơi mất đặc trưng của toàn bộ cấu trúc nghệ thuật”.[4].

Vấn đề tính dục ở đây cần được xem xét một cách nghiêm túc như là một trong những đặc trưng quan trọng dẫn đến cấu trúc nghệ thuật. Đồng quan điểm với Inna Terteryan, chúng tôi cho rằng tính dục trong tiểu thuyết Marquez và Llosa như một thành tố quan trọng của cấu trúc tiểu thuyết, đặc biệt là các biểu hiện của tình dục lệch chuẩn (loạn luân, nội hôn, đồng tính, lệch tuổi, tình dục với thú…), những hành động thể hiện rõ nhất nỗi cô đơn và cũng là thứ đẩy nhân vật dấn sâu vào những sa lầy “nghiệp chướng”.

Đầu tiên cần nhìn nhận tiểu thuyết Mỹ Latinh phản ánh những biểu hiện tình dục có vẻ “mang nặng tính thú vật”, nhưng chúng không bao giờ được phản ánh như là những đam mê thú vật, cũng không bao giờ được phản ánh như là tình yêu, theo quan điểm của Inna Terteryan. Hành vi tình dục của các nhân vật tiểu thuyết Mỹ Latinh có mối liên hệ sâu sắc với hành vi của họ trong tất cả các lĩnh vực đời sống khác. “Trong các nền văn học châu Âu người ta luôn muốn cao nhã hóa sự đam mê tình dục, phổ cho nó một nội dung tinh thần, do đó đưa nó gần lại với tình yêu. Trong tiểu thuyết Mỹ Latinh, “sex” không được tinh thần hóa, thậm chí cũng không được cảm xúc hóa, và không được xích gần lại với tình yêu theo cách hiểu của châu Âu. Nhưng đồng thời nó cũng không bao giờ bị phản ánh như là thứ bản năng thuần túy thú vật, như là một cái gì chỉ có tính thô bỉ, nhơ bẩn, đáng xấu hổ. Tình dục luôn luôn được gắn với hệ thống đánh giá – không phải là sự đánh giá đạo đức trực tiếp, mà với sự đánh giá ngầm ẩn và phức tạp hơn, thêm nữa không chỉ đánh giá các nhân vật, mà còn cả các hiện tượng, các lực lượng xã hội, các sự kiện” [5].

Nếu ở truyền thống phương Đông, tính dục thường gắn với phương diện đạo đức và tình yêu, biểu hiện một cách kín đáo sâu xa, ở phương Tây tính dục gắn với sự tự do tận hưởng, nó được cảm xúc hóa, trải nghiệm hóa thì ở Mỹ Latinh, tính dục đậm chất đời thường, hiển nhiên như ăn và ngủ, mang triết lý sống rất riêng – triết lý của “những con bò cái”. Mỹ Latinh quan niệm tình dục là nhu cầu bình thường của đời sống, nó không bị/ được đánh giá bởi bất cứ tiêu chí ngoại tại nào. Trên sắc thái này, diễn ngôn tính dục đã khu biệt bản sắc tiểu thuyết Mỹ Latinh trên bản đồ văn học thế giới.

Ở tiểu thuyết của Marquez và Llosa, ta thấy sự xuất hiện của đời tư tác giả lên chính nhân vật của họ, có thể gọi là yếu tố “tự truyện”, cũng có thể gọi là một biểu hiện của thủ pháp “siêu hư cấu”. Tác phẩm của Marquez và Llosa có sự đan cài và tưởng tượng lại từ những kinh nghiệm cá nhân tác giả, có thể được đọc theo hai cách. Một cách đọc sẽ xem xét những dữ liệu tiểu sử như là nguồn gốc hư cấu tiểu thuyết của Marquez và Llosa. Một cách đọc khác là tập trung vào câu chuyện, cách kể hơn là người kể.


Nhà văn Gabriel García Márquez (1927-2014) người Colombia, giải Nobel văn học năm 1982

Nhân vật chính trong Tình yêu thời thổ tả và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi mang dáng dấp của chính tác giả Marquez trong tự truyện Sống để kể lại. Nhân vật F. Ariza và tôi trong Hồi ức…, cũng như nhân vật tôi trong Sống để kể lại đều là những gã trai u buồn, cô đơn, si tình, nhưng đầy phóng túng, đam mê trong tình dục. Trong Sống để kể lại, Marquez kể về mình là chàng trai sinh viên học ngành Luật ngang tàng, bỏ học để theo văn, làm báo, hút thuốc và trốn nghĩa vụ. Đặc biệt, ông viết: “Tôi thường hay đến Barranquilla và Cartagena de Indias, hai địa điểm ăn chơi bên bờ biển Caribe, để tiêu khiển và đốt đời mình trong thuốc lá, rượu mạnh cùng những cô gái làng chơi gợi cảm” [6]. Trong Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Marquez từng viết: “Tôi không bao giờ ngủ với bất cứ người đàn bà nào mà không trả tiền, kể cả với một số ít vốn không phải là gái chuyên nghiệp thì cũng cố thuyết phục họ, bằng vũ lực, là phải nhận tiền dù chỉ để vứt vào sọt rác” [7]. Trong Tình yêu thời thổ tả cũng vậy, để lấp đầy những đêm trống trải cô đơn, F. Ariza đã ngủ với biết bao cô gái, trong đó, các cô gái điếm làng chơi là đối tượng không thể thiếu được. Những cô gái điếm biểu trưng cho năng lực tình dục mạnh mẽ, những kỹ xảo làm hài lòng và thỏa mãn quyền uy của nam giới. Hơn hết, với những cô gái làng chơi không đòi hỏi tình yêu, sự lịch thiệp, sự hồi đáp. Họ cho phép người đàn ông bộc lộ bản thân một cách nguyên thủy nhất và tự do nhất.

Trong Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, nhân vật nhà báo đã viết: “cho đến năm năm mươi tuổi, tôi đã ăn nằm với năm trăm mười bốn người phụ nữ ít nhất một lần” [8]. Trong Tình yêu thời thổ tả, suốt 51 năm, 9 tháng và 4 ngày chia lìa với Daza, F. Ariza đã trải qua 620 cuộc tình thay thế, cuộc tình nào cũng đậm màu sắc tình dục. Trong Sống để kể lại, Marquez không thống kê cụ thể số lượng cuộc tình của mình, hoặc vì ông đã già, không thể nhớ hết, hoặc ở tự truyện này, Marquez tự trách nhiệm với những gì thuộc về cá nhân mình, nên không thể hé lộ những con số cụ thể. Tự truyện là thể loại khó có thể chơi trò chơi “mặt nạ tác giả” như trong sáng tạo tiểu thuyết. Tuy vậy, không khó để nhận ra, Marquez đã đưa đặc tính “đa bạn tình” và nỗi ám ảnh với các cô gái điếm vào nhân vật tôi trong tự truyện. Tính cách phóng túng trong tình yêu, tình dục này của Marquez đã chịu ảnh hưởng từ cha ông và ông ngoại của ông: họ từng là những người đàn ông hào hoa, phong trần trên tình trường. Như vậy, tình dục trong các tiểu thuyết của Marquez thường gắn với hình ảnh những cô gái điếm.

Mặt khác, sáng tác của Marquez đậm màu sắc tính dục gắn với nhiều dạng thức tình yêu, nhiều đối tượng tính dục khác trên các tiểu thuyết của ông. Có thể đó là tình yêu giữa nam nữ trẻ trung, có thể là tình yêu khi về già, tình yêu với cô gái điếm, với người phụ nữ bỏ chồng, bị chồng chê hoặc bị góa chồng. Những đối tượng tình dục với nhiều chủng người: người phụ nữ da trắng, người phụ nữ da đen hoặc cô gái lai da nâu (loại này xuất hiện nhiều nhất, bởi các cô gái lai thường đầy tính bản năng phồn thực)… Có những tình yêu thuần khiết, cũng có những tình yêu bạo dâm, loạn luân. Có những tình yêu trong hôn nhân, cũng có những cuộc ngoại tình. Có những tình yêu chân thực, và cũng có những bóng dáng na ná của tình yêu…

Xét riêng trong Trăm năm cô đơn, số phận của các nhân vật đều bị chi phối bởi tính dục lệch chuẩn. Sự hình thành và diệt vong của làng Macondo cũng chính vì lý do đó. Khởi đầu là cuộc hôn nhân của José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán đã có tính chất loạn luân, cái vòng luẩn quẩn này tiếp tục lặp lại, và kết thúc làng Macondo khi Aureliano Babilonia lấy nhầm cô của mình là Amaranta Úrsula rồi đẻ ra đứa con có cái đuôi lợn báo hiệu ngày tận thế. Như vậy, nỗi sợ hãi lớn nhất của con người làng Macondo là nỗi sợ loạn luân, nhưng càng sợ thì họ càng không nén được khao khát mãnh liệt, cuối cùng chính họ luôn lặp lại bi kịch này như một định mệnh không trốn thoát. Các nhân vật trong gia đình Buendía đều có sự lệch lạc trong hành vi tính dục.

Loạn luân là hành vi tính dục cơ bản và phổ biến nhất trong Trăm năm cô đơn, nằm ở nhiều mối quan hệ khác nhau: ví dụ, con trai yêu mẹ ruột, cháu tư thông với cô ruột, em tư thông với chị dâu, anh trai tư thông với em dâu, anh em nuôi lấy nhau… Loạn luân là tình trạng kéo dài suốt lịch sử trăm năm ở làng Macondo. Cái đuôi lợn chính là biểu tượng cho dục vọng lầm lạc và tội lỗi không thể chuộc lại của dòng Buendia. Ngôi làng này sinh thành và diệt vong cũng bởi đây. Cho nên, mệnh đề rất cơ bản ở đây: nếu không có loạn luân, tất yếu sẽ không có tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Loạn luân đã là thứ kiến tạo nên cấu trúc tác phẩm (từ chủ đề, motif, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đến văn phong…).

Xét riêng ở từng nhân vật, tất cả hành động tính dục đều dẫn đến số mệnh của họ với những nhân quả rõ rệt. Nhân vật sống hay chết đều liên quan đến điều này. Remedios Người đẹp không có ham muốn tính dục, không thuộc về đời sống hôn nhân bình thường nên nàng đã bay về trời, để lại bao nhiêu chàng trai si mê nàng phải chết. Meme Buendía chết già trong tu viện vì bị ngăn trở tình yêu và nỗi đam mê tính dục với Mauricio Babilonia – anh chàng thợ máy. Aureliano Segundo luôn chộn rộn bởi những đam mê làm tình, không phải với vợ anh ta mà là với tình nhân Petra Cotes, và càng làm tình thì gia súc càng sinh sôi, càng phát đạt. Chính anh ta phát biểu câu “danh ngôn” bất hủ của cuốn tiểu thuyết: “Hỡi những con bò cái hẫy dạng háng ra, kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm”. Câu nói này là biểu hiện đầy tính hiện sinh của đời sống phồn thực, nhiều bản năng nguyên thủy trong chuyện ăn, ngủ, phung phí xài tiền của Aureliano Segundo. Sống chính là hưởng những niềm hoan lạc bình thường của cuộc sống.

Sẽ không ngoa khi nói tất cả các nhân vật trong Trăm năm cô đơn, hoặc vì tính dục mà khắc kỷ, hoặc vì tính dục mà phóng túng, vượt ra khỏi những giới hạn thông thường. Rất nhiều nhân vật có biểu hiện “lệch lạc” trong ẩn ức tính dục, ví dụ chứng nghiện ăn đất, mút ngón tay như một kiểu thủ dâm, mặc cảm thiến hoạn, thích tự ngắm thân thể của mình… Tất cả những hành động này gắn chặt với đời sống của nhân vật, tạo nên quy luật nhân – quả, đẩy họ đến số phận bi kịch của nỗi cô đơn truyền kiếp.

Tình dục là một phần quan trọng đối với con người đến nỗi chúng ta không thể né tránh nó. Tiểu thuyết của Llosa tiếp tục phản ánh những “lệch chuẩn” đó trong nỗi đau sâu xa. Dù không xuyên suốt và to lớn ngang bằng với chủ đề chính trị xã hội trong tiểu thuyết của Llosa, nhưng vấn đề tính dục lại thường trực ở từng nhân vật của ông và biểu hiện như một yếu tố mãnh liệt của sự sống. Chủ đề này dĩ nhiên đóng vai chính trong các tiểu thuyết được mệnh danh là “tiểu thuyết ái tình” của Llosa như Dì Julia và nhà văn quèn, Các trò tinh nghịch của cô bé hư hay Lời ca tụng người mẹ kế, nhưng chủ đề này cũng chiếm chỗ không nhỏ trong các tác phẩm vốn thuộc về những đề tài xã hội “nghiêm trang” hơn như Trò chuyện trong quán La Catedral hay Bữa tiệc của loài dê, Đường tới thiên đàng… Sự ám ảnh về tình yêu và tình dục đi liền với ý tưởng cốt lõi của Mario Vargas Llosa: sức sống của bản năng nơi cá nhân bị quay cuồng giữa lịch sử và chống chọi với những hoàn cảnh tối tăm.

Chủ đề này trong sáng tác của Mario Vargas Llosa có nhiều điểm tương đồng với Marquez và các nhà văn Mỹ Latinh thế hệ Bùng nổ: trang viết nồng nàn dục tính, nhiệt thành, hành vi “yêu” ít khi toan tính hay lo ngại dư luận, đạo đức, những cảnh bạo lực, giằng co, mâu thuẫn và cả sự mùi mẫn trong cốt truyện tình yêu. Mỗi câu chuyện mà Mario Vargas Llosa khắc họa thường là những cuộc tình chênh lệch về một phương diện nào đó, hoặc gặp nhiều trắc trở và rào cản xã hội. Trong tiểu thuyết của Llosa, các yếu tố tình dục đậm nét, nhưng không trơ trẽn, không tách khỏi cốt truyện. Ngược lại, chúng luôn được nhìn dưới góc độ của những phản ứng xã hội.


Nhà văn Jorge Mario Pedro Vargas Llosa người Perú, giải Nobel văn học năm 2010

Nhân vật trong tiểu thuyết Mario Vargas Llosa hoặc mượn tình yêu, tình dục để kêu đòi sự tự do, thể hiện sự phản kháng cá nhân, hoặc sử dụng tình dục như một công cụ đại diện cho quyền lực. Trong cuốn tiểu thuyết về chế độ độc tài Bữa tiệc của loài dê, Llosa dựng nên hình ảnh Truijilo là đại diện của chế độ độc tài châu Mỹ Latinh. Trujillo đã sử dụng sex không phải chỉ vì khoái lạc, mà còn như một cách thức thể hiện quyền lực. Trujillo là chân dung được Llosa khắc họa khác với các nhà độc tài khác, bởi quyền lực của ông ta không chỉ trên chiến trường mà là trên giường của tất cả những người phụ nữ dưới tay ông. Trujillo lên giường với vợ của rất nhiều cộng sự và cấp dưới của mình. Đối với ông ta, tình dục là một biểu hiện, một công cụ của quyền lực.

Về phương diện tình dục lệch chuẩn, không chỉ các tiểu thuyết Marquez mới đậm đặc dục tính nguyên thủy cuốn Cuộc trò chuyện trong quán La Catedral của Losa cũng vậy. Nó đầy các cảnh và các môtíp tình dục, kể cả những cảnh có tính bệnh hoạn và có vẻ phản tự nhiên. Cuốn tiểu thuyết này là một câu chuyện lịch sử rộng lớn, chen vào những góc bí ẩn của từng cá nhân. Ông chỉ ra sự vận hành cơ chế của một nền độc tài khủng bố điển hình ở Mỹ Latinh ở bề nỗi lẫn bề sâu. Trong số các nhân vật chính, kẻ đứng đầu cơ quan an ninh Caio Bermudes, mà dân chúng gọi là “Caio Dermo” luôn đam mê tình dục và các cảnh tình dục trong tiểu thuyết đều gắn với ngôi nhà của nhân vật này. Caio Bermudes luôn bày đủ mọi trò bẩn thỉu về tính dục để che giấu chứng liệt dương của mình. Ngược lại Caio Bermudes là Ambrosio, người có số phận nhiều kịch tính nhất của thiên truyện, lại lao vào những cuộc tình với nhiều loại phụ nữ để che giấu đi sự bất lực trong địa vị xã hội của tầng lớp mình. Bất lực trên giường và bất lực trên thang địa vị xã hội là những cực đối lập nhau, che giấu và chống đỡ cho nhau. Chủ đề tình dục giữ một ý nghĩa quan trọng trong tiểu thuyết của Mario Vargas Llosa, hoặc nó là phương diện biểu hiện kiêu hãnh của chế độ độc tài, hoặc là sự kháng cự lại chế độ ấy.

Trong bài luận Về những cảnh tình dục trong tiểu thuyết Mỹ La tinh, Inna Terteryan phân tích, đặc trưng tính dục này đã tạo ra nguyên lý phản đề trên tiểu thuyết của Llosa: “Người đọc được giáo dục theo truyền thống văn học châu Âu tất sẽ có ý muốn đánh giá tất cả những cái đó như là “biểu hiện sự suy đồi của tầng lớp chóp bu” như Caio Bermudes. Nhưng sự thực không hoàn toàn như vậy, bởi vì tác giả có thái độ đồng cảm đối với phần đông những người tham gia vào cuộc truy hoan, thậm chí còn đặt vào giữa họ một nhân vật hấp dẫn nhất của cuốn tiểu thuyết. Trên thực tế, “tất cả những cảnh miêu tả đó có một “tiêu điểm” chung – sự bất lực giới tính của Caio Bermudes, kẻ đã cố bày ra đủ trò bẩn thỉu để khắc phục chứng liệt dương của mình. Dần dần tất cả các đường dây cốt truyện của tác phẩm đều gắn vào đây: bất luận thế nào vai trò của nhân vật trong tấn kịch chung đều bị ràng buộc với thái độ của nhân vật đối với chuẩn mực giới tính tự nhiên. Sự phá vỡ, sự phản bội lại chuẩn mực tự nhiên đều đi kèm với sự sai lệch, méo mó vị trí xã hội-đạo đức của nhân vật [9].

Tất nhiên, trong cấu trúc tự sự nghệ thuật, hình tượng nhân vật không bị phân ra thành các phần đối xứng nhau, mà những cặp tính cách này ẩn vào nhau. Trong sự bất lực của Caio Bermudes ta thấy sự mạnh mẽ đàn ông của Ambrocio và ngược lại. Mỗi hành vi tính dục đều gắn với một nội tâm bí ẩn của nhân vật, gắn theo các cặp nghịch lý khác: thành công và thất bại, khao khát và kiềm nén, sự sống tràn sinh lực – sự bất hạnh của từng cá nhân. Tuân theo định mệnh, buông xả bản thân và để cho “con sóng tình” của số phận đẩy đưa, choàng phủ lên cuộc đời họ. Những chi tiết tính dục gắn chặt với cấu trúc tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Đặc biệt Llosa thành công khi tạo nên các mối quan hệ không hề rõ ràng, khó gọi thành tên, ẩn sâu bên trong là những sự thật rất khó tin. Các nhân vật trong Trò chuyện trong quán La Catedral bị vướng mắc trong khuynh hướng tình dục không tự nhiên, sống trong một cuộc đời hai mặt vô cùng khác nhau. Don Fermin với Ambrosio là quan hệ chủ tớ, nhưng thực chất họ là tình nhân, những kẻ quan hệ đồng tính. Queta với Nàng thơ là chị em tốt, là bạn bè thân thiết, nhưng cũng là một cặp đồng tính nữ. Ngoài ra còn có những mối quan hệ lấp lửng rất đáng ngờ khác. Chẳng hạn giữa Cayo và hai người phụ nữ khác trong tác phẩm. Việc nhấn nhá mô tả những mối quan hệ không rõ ràng, không gọi thành tên khiến người đọc cảm thấy Peru không-bình-thường trong các mối quan hệ giữa người với người. Sự nghi ngờ về mối quan hệ thực sự giữa các nhân vật đến cuối tác phẩm vẫn không được giải đáp.

Mario Vargas Llosa cũng viết nhiều về những mỗi quan hệ cùng dòng tộc và lệch pha về tuổi tác. Trong tiểu thuyết Lời ca tụng người dì ghẻ hay Dì Julia và nhà văn quèn (Ở Việt Nam dịch là Dì Hulia và nhà văn quèn) mối quan hệ trung tâm là đứa con và người mẹ kế, đứa cháu và người dì, dù không cùng huyết thống nhưng thuộc diện “đáng can ngăn”. Trong Dì Julia và nhà quèn, cốt truyện được kể song song giữa hai tuyến nhân vật chính. Tuyến thứ nhất là mối quan hệ giữa nhà văn tập sự trẻ tuổi (Marito) với người thợ viết cần cù, khéo tay (Camacho). Tuyến thứ hai là mối tình giữa Mario và người dì Julia của anh. Tuyến thứ hai (mối tình) luôn giàu tính kịch và giàu hành động hơn tuyến thứ nhất, bởi vì bản thân mối quan hệ này có nhiều sự éo le: Julia đã 32 tuổi trong khi Marito mới 18. Julia có họ hàng với Marito và anh phải gọi Julia bằng dì (vốn là vợ người chú của Marito). Hơn nữa, Julia từng có một đời chồng, trong khi Marito còn quá trẻ, chưa từng trải qua một cuộc tình. Định kiến xã hội và những giáo lý đạo đức đã nhiều lần không chấp nhận việc họ đến với nhau, thế nhưng, cả hai vẫn kết hôn và sống với nhau được bảy năm hạnh phúc. Sau khi ly hôn, Marito tiếp tục lấy người bà con của mình: cô em họ xinh đẹp, trẻ trung. Những sự kiện này chính là lấy “nguyên mẫu” chân dung của Mario Vargas Llosa trong đời thực. Llosa cưới vợ là người dì trong họ, lớn hơn ông 15 tuổi. Quan hệ này bị họ hàng và người đời dèm pha. Báo giới từng đánh giá đây là “hành động sốc nổi và vô luân” của Mario Vargas Llosa. Nhưng ông vẫn bất chấp tất cả với sự lựa chọn riêng của mình.

Trong tiểu thuyết này, ngoài mối tình chênh lệch giữa Marito và Julia, còn có những câu chuyện nhỏ thật ám ảnh. Trong đó, một nhánh truyện kể về mối tình giữa hai anh em ruột thịt. Họ yêu nhau bằng tình yêu của nam nữ, bằng tình cảm vợ chồng. Vì sợ bị gia đình và xã hội lên án mà họ đã tìm cách che giấu, cô em gái xinh đẹp, đầy tài năng đã chấp nhận lấy người con trai thô kệch đã theo đuổi cô bao lâu nay, để che mắt cái thai với anh trai đang ngày một lớn lên. Thế nhưng, sự việc bị đổ vỡ ngay trong ngày cưới, chú rể đã vô tình biết được sự việc động trời. Câu chuyện đau khổ và nhục nhã đã bị bỏ lửng lơ ở chỗ chú rể Antunex Tóc Hung với đôi mắt đục ngầu trân trối trong nhà tắm khi phát hiện ra sự thật. Còn Risa, người anh trai và cũng là cha của bào thai thì khóc ròng rã và không thiết sự sống.

Toàn thể tác phẩm này là thiên tiểu thuyết của tình yêu lệch chuẩn. Chủ đề này đã dẫn đến giọng kể trữ tình và cay đắng, kết cấu vừa đóng vừa mở, những tình tiết bỏ ngỏ lửng lơ chờ đợi sự đánh giá của độc giả.

Ngoài tiểu thuyết Dì Julia và nhà văn quèn, Mario Vargas Llosa còn nổi tiếng với những tiểu thuyết “ái tình” Lời ca tụng người mẹ kế. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ rằng, motif loạn luân mẹ – con trong tác phẩm này ít nhiều gợi nhắc đến chủ đề quen thuộc của Marquez trong Trăm năm cô đơn. Trong một bài phỏng vấn, Llosa khẳng định rằng, cùng một mối bận tâm về mối quan hệ loạn luân, nhưng tiểu thuyết của ông không phải là kiểu Hiện thực huyền ảo của Marquez. Tiểu thuyết của ông gần với cuộc đời thực hơn là huyền thoại. Phong cách của Llosa trong tác phẩm này rất ít chất thơ và lãng mạn, nó đánh đố người đọc với một lời giải đáp độc đáo nằm ở cuối truyện. Nhân vật trong tiểu thuyết của Llosa cũng không có tính dị thường hoặc không đẩy lên đến mức kỳ quái, gây ấn tượng sâu đậm nơi người đọc như trường hợp của Marquez. Cái đẹp trong tiểu thuyết của Llosa gắn với đời thường, gắn với cái ác, gắn với những lựa chọn, những nổi loạn kháng cự và rồi thất bại, của một con người cá nhân.

Tuy vậy, ta vẫn thấy những điểm giao nhau giữa hai tác giả lớn nhất trong trào lưu này: họ bận tâm đến những cuộc tình đầy bản năng, những nhục dục lưu giữ nhiều màu sắc nguyên thủy. Giống với tiểu thuyết Marquez, nhân vật của Llosa luôn bị nỗi ám ảnh về tội loạn luân đày con người vào cõi hỗn mang. Các tác phẩm của Llosa toát lên không khí bi kịch của những mối quan hệ quẩn quanh đóng kín. Ông đã luôn nhìn thấy kết thúc của những cuộc tình này khi mà nó còn trong trứng nước. Thái độ của Marquez và Mario Vargas Llosa là gì? Qua văn bản, chúng tôi cho rằng đó là một thái độ có tính hai mặt: không cổ vũ, khuyến khích nhưng cũng không lên án một cách khắc nghiệt. Nói cách khác, đó là cảm giác chấp nhận vừa thích vừa sợ. Cả hai nhà văn đều hiểu rõ những ẩn ức sâu kín mà thiêng liêng của những tình yêu, tính dục bị ngăn cấm. Trang viết của họ mong đợi một sự tái sinh mới cho những con người đã mang lời nguyền của tình yêu và số phận.

Cần nói thêm, nhân vật trong sáng tác của Marquez và Llosa thường bị ám ảnh bởi mặc cảm Oedipe với hình ảnh người mẹ – người phụ nữ đầu tiên của đứa con trai. Người mẹ khơi gợi tình mẫu tử chở che và cả những ham muốn, tò mò về tình dục của đứa con suốt những năm tháng trẻ thơ cho đến khi trưởng thành. Trong tác phẩm Trăm năm cô đơn, Thành phố và lũ chó, Dì Julia và nhà văn quèn đều có những nhân vật nữ – người mẹ, lọt vào tiềm thức tình yêu và tình dục của đứa con trai. Tuy nhiên, khác với nền văn chương nơi mà mặc cảm Oedipe xuất phát (gắn với phương diện đạo đức và nỗi băn khoăn “tồn tại hay không tồn tại”), nhân vật của Marquez và Llosa đã vượt qua lằn ranh của những biên giới đó, họ đã không còn bận tâm với những tín điều đạo đức và tôn giáo. Họ sống với tinh thần đánh cược và chấp nhận: “Nếu mình đẻ ra kì đà thì chúng mình sẽ nuôi kì đà” [10]. Sa lầy vào những khát vọng nguyên thủy, họ đã thực hiện và trả giá cho hành động của mình.

Trong trường hợp của Llosa, điều này xuất phát từ dấu ấn của tuổi thơ: đối lập với cảm giác khao khát tình thương và dục vọng ở mẹ là nỗi sợ hãi và chán ghét đến cực độ của đứa con đối với bố và cả những người đàn ông đến gần mẹ. Hình ảnh người bố và người tình của mẹ trong tác phẩm của Mario Vargas Llosa luôn cay độc, khô khan và khắc nghiệt. Đứa con lớn lên trong sự chống đối ngầm với người bố – thực chất là chống đối với thế giới nam quyền đầy bạo lực. Đó đều là biến thể của những cá nhân giãy giụa trước tình thế ngột ngạt của chính gia đình mình. Chủ đề này ở Llosa đi từ “cấu trúc tâm trí” của tuổi thơ cá nhân và cả một nền văn chương gắn với “mặc cảm khải huyền” về sự diệt vong.

Vì sao tiểu thuyết Mỹ Latinh giai đoạn Bùng nổ đậm đặc dục tính? Nhiều người đã giải thích dựa trên nền văn hóa đậm tính Carnaval của vùng biển Caribbe và Nam Mỹ. Khu vực này mang khí hậu nhiệt đới xích đạo, kết hợp gió mùa từ biển; cơ địa sinh học và tư duy thẩm mỹ cư dân sớm hình thành một nét đẹp mạnh mẽ hoang dã bản địa kết hợp từ tính chất kiêu sa, cao nhã của châu Âu và nồng nàn bản năng của châu Phi. Họ sống một cuộc đời đầy tính hiện sinh bởi lẽ “cuộc đời quá ư ngắn ngủi”.

Không giống với tính chất thanh nhã của Âu châu văn minh, cũng khác với tính dục phóng khoáng của châu Phi hoang dã thần bí, tính dục Nam Mỹ có những hiện tượng lệch chuẩn: ngoại tình, loạn luân, tình yêu cùng giới… thấm đẫm đời sống Kyto giáo, mang đầy đủ dấu ấn nguyên thủy, lẫn dấu ấn của một xã hội hiện đại. Với một châu Mỹ Latinh đang hiện đại hóa nhanh chóng dưới lực đẩy lịch sử – văn hóa lưỡng nguyên thì vấn đề tính dục cũng trở nên phức hợp vô cùng, đứng giữa lý trí và bản năng, giữa tôn giáo và thế tục. Nói cách khác, những cảnh tính dục trong tiểu thuyết Mỹ Latinh là cuộc xung đột giữa phức cảm khắc kỷ và phóng túng, giữa đặc trưng Tây Ban Nha và bản địa, giữa sự tuân phục và chống đối với cái hiện đại. Từ đó, nó tạo nên tính phản đề thường thấy trong tiểu thuyết Mỹ Latinh.

Hơn nữa, khao khát tình dục ở đây thường gắn với cảm thức cô đơn. Cô đơn đẩy các nhân vật đến cánh cửa tính dục, ham muốn làm tình với bất cứ đối tượng nào, kể cả là gái điếm hay người bà con ruột thịt của mình. Họ vừa muốn được chạy trốn vừa muốn được ở lại mãi mãi trong cái im lặng đầy thất vọng của nỗi cô đơn đáng sợ, kết quả là tính dục đẩy nhân vật vào cô đơn thẳm sâu hơn, cùng cực hơn. Tiêu biểu nhất là hành trình chạy vào tính dục trốn nỗi cô đơn của dòng họ Buendia từ quan hệ trong hôn nhân đến ngoài giá thú xoay quanh các mối tình của Jose Arcadio (với người giúp việc, Pila Ternera, cô gái Digan), của đại tá Aureliano Buendya với 17 cô gái, Arcadio và Aureliano với Pilar Ternera; của Arcadio Segundo và Aureliano Segundo với Petras Cotes; cùng một loạt các mối quan hệ loạn luân khác…

Nhân vật trong tác phẩm Marquez một mặt luôn có khát vọng tình dục, mặt khác luôn luôn cảm thấy cô đơn. Tâm thức này chi phối toàn bộ tác phẩm của ông khiến nhân vật ở mọi tác phẩm sẽ gặp nhau ở điểm chung: cô đơn lặp đi lặp lại như một vòng tròn định mệnh vĩnh viễn bất chấp sự cố gắng vượt thoát của họ. Thành công lớn của Marquez, như Lê Huy Bắc từng nhận xét, là tạo nên một “thế giới nhân vật đều phải luôn đối đầu với cái cô đơn. Chưa bao giờ trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta lại gặp nhiều con người, nhiều kiểu dạng cô đơn như ở đây […]. G. Marquez đặt nhân vật của mình đối diện với cái cô đơn và kiểm tra thái độ của nhân vật mình với cái cô đơn đó” [11].

Như vậy, chủ đề về tính dục gắn chặt với tư tưởng và cấu trúc của tiểu thuyết. Các yếu tố từ cốt truyện, tình tiết, biểu tượng đến ngôn ngữ, văn phong đều bị chi phối từ chủ đề này. Lấy một ví dụ trong Thành phố và lũ chó, Mario Vargas Llosa đã viết về đời sống tinh thần và tính dục ở tuổi mới lớn trong ngôi trường quân sự với một loạt các biểu hiện nổi loạn: họ thử qua tình dục đồng giới, tình dục với những con thú vật như gà mái, chó cái, đồng thời không thiếu những cuộc bạo dâm, hiếp dâm và gây nên tội ác. Các nhân vật của Mario Vargas Llosa dùng đời sống tình dục như một cách cựa quậy đòi quyền dân chủ và phản ứng lại xã hội. Tác phẩm gắn với những hình ảnh “tục tĩu” và nhiều từ lóng thông dụng, chẳng hạn: “chúng đang mơ tưởng đến bộ phim nọ, chúng vẫn còn nhìn thấy bao nhiêu là đàn bà chỉ mặc quần trong, bao nhiêu là đùi vế, bao nhiêu là bụng…” [12], “Vì chuyện cứt đái gì mà mày khóc thế hả?” [13], “mày mà rót ít sữa là chúng tao thiến dái mày đó” [14], “hơi nhiều đấy, mẹ kiếp”… “Thằng Trăn chỉ đéo được con chó cái thôi… Cái thằng vừa đi vừa đéo ấy. Chỉ là chuyện mà thôi, chúng mày ạ, tao nghĩ tới không thôi cũng đã cửng lên rồi…” Ngôn từ đời thường và đậm đặc từ ngữ dục tính tô đậm “một thế giới đực”, “một cuốn sách đậm mùi đực tính”. Đây là một ví dụ cho thấy khám phá của Llosa về chính trị kết hợp trong bản năng tính dục của con người, viết với cấu trúc chặt chẽ về nhân vật, giọng điệu, văn phong tương ứng.

Trong khi kể, tả, các nhà văn Mỹ Latinh tỉnh táo và dửng dưng, chống lại sự dịch chuyển cảm xúc. Họ không bàn luận và đánh giá bằng thang đo đạo đức hay thẩm mỹ. Họ chấp nhận như điều đó như chấp nhận “thực tại thứ ba” của châu lục mình. Họ có thể có niềm tin về tính dục, nhưng đó là niềm tin: “Không một việc làm nào với nhau ở trên giường là vô đạo đức nếu nó góp phần gợi nhớ đến tình yêu” (Marquez). Bắt nguồn từ những “nghiệp chướng” mang tính cách văn hóa của Mỹ Latinh, tiểu thuyết trào lưu Boom đã đẩy lên thành cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh và gắn bó nhau sâu sắc.

Về thành quả của tiểu thuyết mới Mỹ Latinh, nói như nhà phê bình văn chương Chile J. Loveluck trong tham luận Sự khủng hoảng và đổi mới của tiểu thuyết Mỹ Latinh: sự đổi mới của văn xuôi vùng đất này biểu hiện trên hai lĩnh vực: những chủ đề chưa từng được đề cập đến và theo đó là kỹ thuật và cơ cấu tự sự mới lạ [15]. Người ta nhìn thấy trong tiểu thuyết giai đoạn những “hiện thực ngoại cỡ”, những vấn đề thiết yếu liên quan đến vận mệnh dân tộc và số phận con người. Những chủ đề lớn lao, phức tạp luôn đan lồng vào trong tính cách, số phận từng cá nhân nhỏ lẻ, đi sâu vào đời sống nội tâm, lặn xuống những tầng vỉa nhân sinh lẫn vô thức của con người.

Mỹ Latinh là vùng đất chứa đựng hầu hết những hệ ý thức tư tưởng của nhân loại, nền văn hóa lai đậm nét đã hình thành ở người dân mỗi khu vực những đặc tính khác nhau. Nhìn chung ở họ là sự ít bảo thủ, nhạy bén, khí chất nồng nàn mãnh liệt đến độ bạo liệt. Đôi khi trong họ là sự kết hợp của những đối cực: chẳng hạn vừa “hiện sinh” vừa lưu luyến quá khứ, vừa nhiệt thành lại vừa “cô đơn”, vừa hâm mộ khoa học lại vừa sùng tín đạo Thiên chúa. Ở những nhà văn như Marquez và Llosa, con người họ là một khối đầy nghịch lý. Họ luôn hướng đến cái đẹp và sự hoàn mỹ, nhưng cả hai đều không ít lần bị hấp dẫn bởi sự bất toàn, sự khiếm khuyết như là một gương mặt khác của cái đẹp, cái ác, tội lỗi như một “siêu đạo đức”. Tính cách phức hợp, nhiều đối cực của khu vực này cộng hưởng với tâm lý sáng tạo đặc biệt của nhà văn đã đẩy họ lựa chọn một con đường nghệ thuật tương ứng: trần thuật trong tính phản đề tương ứng, khám phá những chủ đề độc đáo bằng những thủ pháp trần thuật mới mẻ. Tính dục và nỗi cô đơn huyền thoại trở thành một trong những đặc trưng của tiểu thuyết Marquez và Llosa, rộng hơn là tiểu thuyết Mỹ Latinh thời thịnh vượng.

 Lê Ngọc Phương
Bình luận văn học

—————

[1] Hà Vinh, Vương Trí Nhàn biên soạn (2006), Có những nhà văn như thế, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, trang 265

[2] Vũ Thị Huế, “Mario Vargas Llosa: Cuộc đời trong văn bản”, Báo Văn Nghệ số 14/2015, nguồn: http://www.viebooks.com/Author/PostsDetails/309?idAuthor=1086-Mario-Vargas-Llosa cập nhật 12/11/2015

[3] [4] [5] Inna Terteryan, “Về những cảnh tình dục trong tiểu thuyết Mỹ Latinh”, nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa/Ve-nhung-canh-tinh-duc-trong-tieu-thuyet-My-La-tinh/20561161/103/ cập nhật 17/04/2006

[6] Gabriel Garcia Marquez (2007), Sống để kể lại, Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, trang 13

[7], [8] Gabriel Garcia Marquez (2007), Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, trang 18

[9] Inna Terteryan, “Về những cảnh tình dục trong tiểu thuyết Mỹ Latinh”, nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa/Ve-nhung-canh-tinh-duc-trong-tieu-thuyet-My-La-tinh/20561161/103/ cập nhật 17/04/2006

[10] Gabriel Garcia Marquez (2003, 2011), Trăm năm cô đơn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn học, trang 46

[11] Lê Huy Bắc (2009), Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, trang 218, 219

[12] Mario Vargas Llosa (2011), Trò chuyện trong quán La Catedral, Phạm Văn dịch, NXB Nhã Nam, trang 25

[13] Mario Vargas Llosa (2013), Thành phố và lũ chó, Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB Nhã Nam, trang 36

[14] Mario Vargas Llosa (2013), Thành phố và lũ chó, Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB Nhã Nam, trang 58

[15] Nhiều tác giả (1999), Văn học Mỹ Latin, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện thông tin khoa học xã hội Hà Nội, trang 129

[*] ThS. Lê Ngọc Phương, khoa Văn học và Ngôn ngữ, ĐHKHXH&NV, TPHCM

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Valentina Novkovich (Cộng hòa Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovich, đồng thời là nhà văn, dịch giả văn học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga (ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan, Romania, Macedonia, Kazakhstan.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm