TIN TỨC

Chuyện những thương binh “tàn mà không phế”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
494 lượt xem

CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

TRẦN TRỌNG TRUNG

Đất nước thống nhất, non sông Việt Nam liền một dải, chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ... nhưng, vết thương của cuộc chiến vẫn còn hằn sâu trên da thịt của các thương binh, bệnh binh, những cựu chiến binh Việt Nam. Hằng năm có ngày 27/7 là ngày tri ân các anh hùng thương binh, liệt sĩ, những chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ đã hy sinh tính mạng, xương trắng, máu đào... để giành lấy độc lập, tư do cho dân tộc, hòa bình, thống nhất Tổ quốc...

Phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, sau khi rời quân ngũ, gác tay súng trở về cuộc sống đời thường, những thương binh vẫn lao vào trận chiến tăng gia sản xuất, khởi nghiệp, phát triển kinh tế gia đình làm giàu chính đáng, bằng chính đôi tay, khối óc và tinh thần cần cù lao động, vượt lên chính mình. Nhiều người gọi những thương binh này bằng câu “Tàn mà không phế”!

Đến thăm gia đình anh Huỳnh Văn Quận (sinh năm 1960) ở ấp K8, xã Phú Đức, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, vào một ngày không nắng. Được anh Quận dẫn ra phía sau nhà là một khu đất rộng cạnh bên vùng đệm Vườn Quốc gia Tràm Chim đã được anh trồng nhiều trụ thanh long ruột đỏ. Các trụ thanh long ruột đỏ được anh cần mẫn chăm sóc cẩn thận nên đã cho thu hoạch nhiều đợt và đem lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình. Ngồi bên cạnh trụ thanh long đang trổ bông, anh Quận kể lại thời trai trẻ đã xung phong lên đường bảo vệ Tổ quốc: “Tôi thi hành nghĩa vụ quân sự năm 1982, trong một lần cùng đồng đội tham chiến ác liệt để bảo vệ biên giới Tây Nam - Campuchia, tôi đã bị thương và để lại một phần thân thể tại chiến trường…”.

Đến năm 1984, sau khi xuất ngũ, trở về cuộc sống đời thường, anh bị cụt mất một chân phải, với tỷ lệ thương tật 61%. Lúc bấy giờ, cuộc sống của thương binh hạng 2/4 Huỳnh Văn Quận hết sức khó khăn. Nhưng, với bản lĩnh của người lính “Bộ đội Cụ Hồ”, quyết tâm không cam chịu là gánh nặng của gia đình và xã hội, bằng nguồn trợ cấp thương binh hằng tháng, cộng với nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng, anh cùng với vợ lao vào làm ăn, tăng gia sản xuất và chi tiêu tiết kiệm để phát triển kinh tế gia đình, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Qua nhiều năm cần cù làm ruộng, trồng sen, mua bán và trồng thanh long ruột đỏ… đến nay, cuộc sống kinh tế gia đình thương binh Huỳnh Văn Quận đã cơ bản ổn định, sung túc. Anh hiện sở hữu 10 công đất ruộng canh tác mỗi năm 3 vụ lúa và 6 công đất vườn trồng thanh long ruột đỏ phía sau căn nhà tường cấp 4 vừa mới xây dựng xong, trị giá gần 400 triệu đồng. Trung bình mỗi năm, gia đình thương binh Huỳnh Văn Quận có nguồn thu nhập từ ruộng lúa và vườn thanh long ruột đỏ trên 300 triệu đồng. Ba đứa con trai của anh đều được học hành tới nơi tới chốn. Thương binh Huỳnh Văn Quận vui vẻ chia sẻ: “Được cuộc sống như ngày hôm nay, hiệu quả kinh tế cũng tốt. Với thu nhập ổn định mỗi năm hàng trăm triệu đồng thì cuộc sống của gia đình tôi ổn định, sung túc lắm. Bà xã đỡ vất vả hơn ngày xưa; con cái đã an cư và có việc làm ổn định rồi”.

Rời nhà thương binh Quận, tôi ghé nhà ông Võ Văn Hoàng ấp Cà Dăm, xã Tân Công Sính. Được gia chủ mời uống trà và trò chuyện rất thân tình. Ông Võ Văn Hoàng bày tỏ: “Tôi sinh năm 1930, quê ở xã Đốc Binh Kiều, huyện Tháp Mười, tham gia bộ đội ở Tiểu đoàn 502. Vào năm 1968, trong kháng chiến tôi còn có tên là Bảy cùng với đồng đội chiến đấu ác liệt với kẻ thù trong trận đánh ở Cả Bèo để chiếm khám đường Cao Lãnh. Không may, trong trận chiến này, tôi đã bị thương, cụt mất một chân trái…”.

Là thương binh, ông Hoàng rất tự hào vì đã cống hiến một phần thân thể cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày 30/4/1975, ông Hoàng cùng vợ rời quê nhà lên xã Tân Công Sính (còn gọi là Khu Tư) để khai phá đất hoang, lập thân, khởi nghiệp. Thương binh Võ Văn Hoàng cho biết: Lúc bấy giờ, vùng đất Khu Tư này rất khó sống nếu ai không có bản lĩnh và nghị lực. Bởi, đất đai ở đây bị nhiễm phèn nặng, cỏ - năn mọc dày đặc, những ngày mưa bão - lũ lụt thì vô cùng khủng khiếp… nên dân gian có câu “Đến đây xứ sở lạ lùng - Nghe tiếng con chim hót, tiếng con cá vùng, cũng kinh”… Thương binh Hoàng nhớ lại: “Hồi đó, tôi được ông bà già vợ cho 10 công đất để làm lưng vốn lên xã Tân Công Sính làm ăn, lập nghiệp. Sau khi khai phá được 6 ha đất hoang, vợ chồng tôi bắt tay vào canh tác lúa. Tưởng dể, nào ngờ lúa sạ được gần nửa tháng đang lên xanh tốt, bỗng vài ngày sau lá bị đỏ đầu, đem phân rải xuống thì cây lúa từ từ lụi tàn rồi chết sạch... Năm nào đất cũng dậy phèn đỏ lồm, không loại cây nào sống nổi, chỉ có cỏ - năn mà thôi, tiền của bao nhiêu chịu cho nổi với vùng đất hoang vu này... Đó là chưa kể chuyện sâu rầy, chuột bọ sinh sôi phá hại tràn lan rồi muỗi mồng, đĩa vắt vô số... Vì thế, nhiều người đến đây chưa có kinh nghiệm sản xuất, thiếu ý chí - nghị lực, thiếu lòng kiên nhẫn đối với vùng đất mới này nên chỉ sau một, hai năm làm ăn thất bại đã khăn gói ra đi...”.

Để trụ lại được ở xứ sở đã từng được mệnh danh “Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội tợ bánh canh, cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy” này, vợ chồng thương binh Võ Văn Hoàng chỉ biết nương tựa nhau lao vào công việc để tìm kế mưu sinh và được cha mẹ vợ động viên tinh thần, hỗ trợ vốn để làm ăn, tăng gia sản xuất... Hằng ngày, vợ chồng ông vừa làm ruộng vừa tảo tần làm mướn, rồi tới mùa nước nổi thì thả lưới, giăng câu, hái rau, bắt ốc... kiếm tiền lo nuôi sống gia đình và tiếp tục khai hoang mở đất. Ròng rã hơn 7 năm trời, làm lúa có năm huề vốn, có năm bị thua lổ… nhưng vợ chồng ông vẫn không nản lòng mà quyết chí làm ăn, tăng gia sản xuất, mỗi năm chuyển vụ được vài công ruộng để canh tác kiếm nguồn thu nhập ổn định… Ông Hoàng kể tiếp: “Mãi đến thập niên 90 của thế kỷ XX, đất đai của tôi đã được thành khoảnh, sản xuất có lãi... Từ đó, vợ chồng tôi chi xài tiết kiệm và tích lũy vốn liếng để mua sắm phương tiện chuyên chở, máy móc hiện đại… phục vụ sản xuất và đời sống…”.

Thật đáng khâm phục, dù là thương binh hạng 3/4, nhưng ông Hoàng luôn quyết tâm vượt khó vươn lên làm giàu chính đáng bằng mô hình làm lúa. Sau nhiều năm cần cù nỗ lực, ông đã xây dựng được căn nhà tường khang trang, rộng rãi; trong nhà mua sắm đầy đủ tiện nghi sinh hoạt… Ông còn đầu tư mua 3 chiếc máy cày vừa làm 6 ha đất ruộng nhà vừa làm dịch vụ cho nông dân… Với cách thức làm ăn khoa học nên mỗi năm, ông Hoàng có thu nhập hàng trăm triệu đồng. Thương binh Hoàng vui vẻ chia sẻ: “Nỗ lực làm để chính quyền địa phương nhẹ lòng lo. Tôi hết sức nỗ lực làm đêm, làm ngày nên mới vượt qua khó khăn. Ngày nay coi như gia đình tôi cũng có tương đối có ăn. Cũng nhờ Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ cho tôi trong phần đời sống được thoải mái, sống khỏe được đi an dưỡng chỗ này chỗ kia vợ chồng tôi quanh năm nên hết sức là mừng. Cuộc sống tôi bây giờ thoải mái rồi, cứ trưa cũng có ngủ một giấc; nhà cũng có máy lạnh đàng hoàng, mừng lắm chớ”.


Thương binh Dương Hùng Oai trao đổi với PV.

Còn ông Dương Hùng Oai (sinh năm 1956) ở xã Phú Thọ thi hành nghĩa vụ quân sự năm 1976, đóng quân ở Trạm Biên phòng Cầu Muống, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Hai năm sau, ông Oai được phong cấp hàm Trung sĩ, giữ chức Phó Trưởng Trạm Biên phòng Cầu Muống. Trong một lần cùng đồng đội tham chiến ác liệt để bảo vệ biên giới Tây Nam - Campuchia, ông Oai chẳng may bị thương và để lại một phần thân thể tại chiến trường. Năm 1979, sau khi xuất ngũ, trở về cuộc sống đời thường, ông bị cụt mất một cánh tay phải, với tỷ lệ thương tật 45%. Lúc bấy giờ, cuộc sống của thương binh hạng 3/4 Dương Hùng Oai hết sức khó khăn. Nhưng, với bản lĩnh của người lính “Bộ đội Cụ Hồ”, quyết tâm không cam chịu là gánh nặng của gia đình và xã hội, bằng nguồn trợ cấp thương binh hằng tháng, cộng với nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng, ông Oai lao vào làm ăn, tăng gia sản xuất và chi tiêu tiết kiệm để phát triển kinh tế gia đình, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Qua nhiều năm miệt mài sản xuất, chăn nuôi… đến nay, kinh tế gia đình ông cơ bản ổn định. Tận dụng gần 2 công đất trống quanh nhà, ông trồng dừa, xoài, mít, mía, khoai mì… trung bình mỗi năm, gia đình ông thu nhập 70 triệu đồng. Ông Oai đã xây dựng căn nhà khang trang gần nửa tỷ đồng... Thương binh Dương Hùng Oai tâm sự: “Tôi bản thân thương binh, nên vợ chồng vươn lên làm ăn thoát nghèo, nay gia đình cũng khấm khá, xây nhà khang trang rồi cho bớt gánh nặng của địa phương và xã hội. Gia đình tự vươn lên, nay cũng hết khó khăn rồi”.

Tới nhà ông Phan Văn Tịnh (sinh năm 1954) ở xã Phú Ninh. Sau một tuần trà, ông Tịnh cho biết: ông nhập ngũ năm 1971 và được biên chế vào đơn vị hậu cần Quân khu 9. Khoảng tháng 3/1972, trong một trận chiến đấu với kẻ thù ông Tịnh bị thương và được xếp loại thương binh hạng 3/4. Sau ngày 30/4/1975, ông xuất ngũ trở về địa phương. Lúc đó, gia đình không có đất sản xuất, không nghề nghiệp nên vợ chồng ông phải làm thuê mướn vất vả để kiếm sống. Gần 10 năm lao động miệt mài, vợ chồng tôi tích cóp được chút lưng vốn, mua được 10 công đất ruộng để sản xuất lúa, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Đến năm 2005, Hội Cựu chiến binh huyện vận động chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ông Tịnh mạnh dạn vay 12 triệu đồng vốn Ngân hàng đầu tư xây chuồng và mua 2 con bò cái thả vào chuồng nuôi. Ông Tịnh quyết tâm vượt khó, vươn lên làm giàu chính đáng bằng mô hình nuôi bò lai Sind. Từ 2 con bò cái nuôi ban đầu, đến nay ông đã tăng đàn bò lên tới 32 con các loại. Trung bình mỗi năm, ông thu nhập từ 250 đến trên 300 triệu đồng. Thương binh Phan Văn Tịnh bày tỏ: “Về sức khỏe cũng giảm, nhưng cũng phải phấn đấu để làm quyết liệt lo cho vợ con sau này, trong tương lai. Làm phát triển cũng mua được 10 công đất cặp Quốc lộ 30 này, nhà cửa cũng hoàn chỉnh; không để gánh nặng cho Nhà nước, xã hội tiếp mình. Ráng phấn đấu để vượt qua, tự lực làm giàu là chính”.

Toàn huyện Tam Nông hiện có 604 liệt sĩ, 63 mẹ Việt Nam anh hùng, 277 thương binh và 59 cán bộ chiến sĩ bị địch bắt tù đày... Trong đó, có nhiều thương binh, bệnh binh là hội viên Hội Cựu chiến binh các xã, thị trấn. Đa số các hộ thương binh đều có ý chí phấn đấu vươn lên làm kinh tế giỏi, với nhiều cách làm hay, mô hình hiệu quả thiết thực nên đời sống đều được ấm no, sung túc. Trong số 123 thương binh là hội viên Hội Cựu chiến binh đã có 41 hộ giàu, 47 hộ khá và 35 hộ có mức sống trung bình, không còn hộ thương binh nghèo. Ông Trịnh Văn Lớn cho biết: “Với vai trò Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Tam Nông, tôi rất hoan nghênh, đồng tình với sự quyết tâm của anh em thương binh, cựu chiến binh khắc phục vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thực hiện các mô hình sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh giỏi để góp phần ổn định cuộc sống... Hướng tới, Hội Cựu chiến binh huyện sẽ tiếp tục phát động những thương binh, cựu chiến binh học tập tấm gương các đồng chí Quận ở xã Phú Đức; đồng chí Hoàng ở xã Tân Công Sính; đồng chí Oai ở xã Phú Thọ và đồng chí Tịnh ở xã Phú Ninh. Đây là những tấm gương sáng để cho các hội viên cựu chiến binh toàn huyện học tập, noi theo để vượt khó, làm ăn phát triển kinh tế gia đình, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Cựu chiến binh huyện nhiệm kỳ 2022 - 2027, gắn với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh ở địa phương; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.

Rõ ràng, các thương binh sau khi rời quân ngũ, trở về cuộc sống đời thường, bằng ý chí quyết tâm, bản lĩnh của “Bộ đội Cụ Hồ” đã vượt qua mọi khó khăn để phát triển kinh tế gia đình, vươn lên làm giàu chính đáng bằng chính đôi bàn tay, khối óc và con tim đầy nhiệt huyết của mình, góp phần xây dựng nông thôn mới - đô thị văn minh để làm giàu cho quê hương, xứ sở...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm