TIN TỨC

Đinh Nho Tuấn, trao em một mảnh vô thường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-25 21:02:49
mail facebook google pos stwis
1312 lượt xem

Nhà thơ NGÔ ĐỨC HÀNH

(Đọc tập thơ “Năm ngón chưa đặt tên”, NXB Hội Nhà văn năm 2024 của nhà thơ Đinh Nho Tuấn)

Năm ngón chưa đặt tên là tập thơ thứ 6 của nhà thơ Đinh Nho Tuấn (Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh). Tôi có cảm nhận nhà thơ tuổi Ngọ này đang ở thời kỳ sung mãn nhất của lao động ngôn ngữ. Từ năm 2018 đến nay, chỉ riêng năm 2021, Đinh Nho Tuấn không xuất bản; các năm khác đều mỗi năm anh “trình làng” một tập.

Tôi là đồng hương, do vậy may mắn là được sở hữu cả 6 tập thơ của anh. Năm ngón chưa đặt tên, tôi nhận được trong chuyến công tác ở TP. Hồ Chí Minh, tháng 9/2024. Tập thơ gồm 63 bài thơ. Đinh Nho Tuấn luôn vậy, các tập thơ đã xuất bản thường dày dặn.

Nhà thơ Nga Raxun Gamzatop, được độc giả Việt Nam biết đến tác giả của Đaghextan của tôi từ năm 1984, từng viết: “Chẳng lẽ cái làng Đaghextan nhỏ bé lại đẹp hơn Vonizo, Cairo...?”. Ông khẳng định: “Đẹp hơn là chắc chắn rồi, bởi vì mỗi lần trở về làng trên mỗi bước đi, tôi gặp lại mình, gặp lại thời thơ ấu của tôi, gặp lại những mùa xuân, những cơn mưa, những bông hoa và những chiếc lá rụng mùa thu của tôi”.

Sỡ dĩ tôi nhắc đến Raxun Gamzatop bởi mở tập thơ, gặp ngay bài Cánh đồng – từ cảm xúc trên quê hương tôi, với tôi, trong một lần tình cờ gặp gỡ. Đinh Nho Tuấn, bằng ngôn ngữ, thi ảnh của mình đưa ra một giá trị phổ quát: “Còn lúa là còn quê / Còn cánh đồng là còn lối ta về”, (Cánh đồng).

Việt Nam vốn là đất nước nông nghiệp, kho tàng ca dao, tục ngữ, đạo lý làm người cha ông để lại có xuất xứ từ cánh đồng, từ những kinh nghiệm mùa màng. Lịch sử hình thành các đô thị cũng từ kẻ chợ - nơi người nông dân các vùng phụ cận tìm đến buôn bán nông sản, sản vật từ cánh đồng, dòng sông.

Cho đến bây giờ, dẫu đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng nông nghiệp vẫn là “bệ đỡ” của đất nước, khẳng định vị thế “Phi nông bất ổn”, (tương truyền lời nhà bác học Lê Quý Đôn). Chắc chắn, trong “kỷ nguyên vươn mình” tới đây của đất nước, “hạt gạo làng ta”, (tên bài thơ của Trần Đăng Khoa) sẽ tiếp tục góp phần làm nên “thương hiệu quốc gia”, tham gia vào chuỗi giá trị logistics toàn cầu.

Ký ức làng, ký ức quê kiểng trở thành vùng ký ức, găm vào tâm hồn nhiều thế hệ nhà thơ. Không chỉ với những nhà thơ sinh ra từ làng, lấm láp cùng cánh đồng còn là nghĩa cảm. Người cầm bút thấy mình mắc nợ. Đinh Nho Tuấn lặng lẽ tri ân hạt lúa, tri ân cánh đồng.

...

Dành cho lúa những lời thứ nhất

Dành cho lúa những lời sau cùng

Lời tri ân

Cánh đồng kiệm lời

Hạt thóc vàng không biết nói

(Cánh đồng)

Đây là khổ thơ thứ 4 trong bài thơ 8 khổ, theo tôi là hay nhất, tôn vinh triết mỹ, xác tín tư tưởng của bài thơ. Đinh Nho Tuấn sáng tác vào tháng 5/2024, nhân lần anh cùng người vợ tào khang từ TP. Hồ Chí Minh ra Can Lộc, Hà Tĩnh tổ chức vu quy cho con gái nuôi. Đinh Nho Tuấn ngoài đời là người nặng lòng, chu đáo, trọn vẹn. Không ngạc nghiên, thơ anh vừa trữ tình da diết, vừa đằm thắm vừa suy tư, tìm kiếm và nâng niu giá trị của vẻ đẹp.

Tôi lang thang tôi xa cách làng tôi / Tôi góc bể tôi thành người thành phố / Nhưng đôi chân thèm khát đất ruộng cày / Tiếng diều xưa trong lòng tôi xây tổ”, (Tôi rơi về làng tôi). Có một nhà thơ, từng viết ngày xưa tôi sống trong làng, bây giờ làng sống trong tôi. Với Đinh Nho Tuấn, thơ anh có một mảng đề tài trữ tình day dứt về quê hương bản quán. Dường như Đinh Nho Tuấn viết mãi không hết những cung bậc cảm xúc anh dành cho quê nhà, Hà Tĩnh. Tâm hồn nặng hơn nhiều thể xác. Anh viết để trả ơn, trả nghĩa.

Ngoài bài thơ Cánh đồng, chủ đề làng quê trong Năm ngón chưa đặt tên còn có Tôi rơi về làng tôi, Đồng quê, Hoa lộc vừng, Rồi khép hờ tôi tháng ngày qua. Rộng hơn cố thổ là quê hương, đất nước là Hà Nội mùa đông, Pleiku Gia Lai, Thu Đà Lạt, Với Tây Ninh, Tấm nhân từ đâu có quê hương, Dạ khúc...

Đinh Nho Tuấn đi từ làng đến đất nước, từ mình đến người, từ số phận đến thân phận, từ tất yếu đến tự do. Viết về ruột thịt có các bài Ông là, Người và em, Mẹ và em, Cha, Logic em... Trong tập thơ còn có nhiều bài thơ thân phận, viết bằng cảm xúc vô thức; đó là Mười ngón chưa đặt tên, Lý do, Tự vấn, Li rượu đầu năm, Dòng sông ngược lối, Cõi người...Tập thơ còn có chủ đề về tình yêu, đề tài không thể thiếu trong tâm hồn thơ lãng tử Đinh Nho Tuấn.

***

Tâm hồn Đinh Nho Tuấn trẻ trung về cảm xúc, dẫu tuổi đời không còn trẻ. Chỉ vài năm nữa anh bước đến “ngưỡng” lục thập hoa giáp. Ở tuổi ấy, thấu hiểu nỗi người, lẽ đời. Dễ hiểu vì sao, nhiều bài thơ hướng đến tinh thần pháp ấn (khổ, vô thường, vô ngã). Đó là triết lý Phật giáo, không có gì vĩnh hằng.

“Tình cờ như một ngày / Sau hoàng hôn chín rụng / Tình cờ như một đời / Có màu thương màu giận”, (Tình cờ đêm). Ở bài thơ có 7 khổ này, tứ thơ được triển khai chặt chẽ trong sắc màu sắc không. “Những người đi qua nhau / Xóa không tan khuôn mặt / Có giọt người trong veo / Chỉ chờ đêm bật khóc”, (Tình cờ đêm). Theo tôi, hai câu: “Có giọt người trong veo / Chỉ chờ đêm bật khóc”, trở thành “đơn vị câu”, (theo khái niệm của nhà thơ Đặng Huy Giang). Hay nói cách khác, tạo nên biên độ cảm xúc, dư ba của tác phẩm, vẻ đẹp của thi ca.

Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn nhận xét: “Thơ Đinh Nho Tuấn đã trải qua hai giai đoạn thẩm mỹ. Giai đoạn thẩm mỹ thứ nhất nhiều mơ mộng, vương vấn thể hiện ở ba tập thơ “Em hãy cho anh vội”, “Em tôi”, “Dan díu với núi sông”. Giai đoạn thẩm mỹ thứ hai nhiều nao nức giãi bày, thể hiện ở hai tập thơ “Ngàn tiếng đời ấp ủ” và “Lời phả hương”. Bây giờ, ở tập thơ “Năm ngón chưa đặt tên” lại thể hiện thơ Đinh Nho Tuấn đang chuyển sang giai đoạn thẩm mỹ khác, nhiều thao thức, nhận diện mọi giá trị xung quang”, (Lê Thiếu Nhơn: Lòng cài thêm cúc che chắn rụng rời).

Đây là nhận xét tinh tế c ủa một nhà lý luận phê bình. Đinh Nho Tuấn, trước hết là một người chân thành, dung dị; tâm hồn dào dạt cảm xúc. Theo dõi “hành trình thơ” của Đinh Nho Tuấn, dễ thấy ở Năm ngón chưa đặt tên có những bước tiến về tổ chức ngôn ngữ, tứ thơ triển khai chặt chẽ. Do vậy, các bài thơ trong tập thường ngắn hơn trước đây. “Thơ Đinh Nho Tuấn ngày càng chắt lọc hơn”, Lê Thiếu Nhơn nhận xét.

...

Bài thơ về tự do dậy thì cảm xúc

Như mưa xuân như loa lá đâm chồi

Cuộc đời tự do là huyền thoại

Xin kể cho người bằng cách của tôi

(Tôi thách tôi)

Bài thơ xác tín tư duy thơ của Đinh Nho Tuấn. Anh luôn ưu tư, suy tư về trách nhiệm của con chữ, của nhà thơ trước cuộc sống, khổ đau, hạnh phúc và khao khát. Hay nói cách khác, Đinh Nho Tuấn là nhà thơ có trách nhiệm xã hội trong sáng tác; “Tôi vẫn viết như ngày mai tuyệt chủng”; luôn chất vấn chính ngòi bút của mình: “Thèm cái riêng, không lẫn với các chung”. Đây cũng chính là quy luật chung – riêng trong triết học, được anh “thơ hóa”. Đó là một hành trình vật vã trong cô đơn của bản thể. Dấu chân khó để lại trên lối mòn.

Thơ cho cùng là giấc mơ, nhà thơ là người giải mã giấc mơ đó từ cuộc sống. Bài Tôi thách tôi chỉ gồm 4 khổ thơ nhưng chứa đựng thông điệp, giàu ẩn dụ. “Để khác mình hôm qua / Ta chém lên giấy điệp / Những lời nói tự do / Chính mình hay là chết”, (Tình cờ đêm). Đinh Nho Tuấn là người trong tâm hồn có những khát khao, mơ ước về những giá trị phổ quát của loài người, “Đau đớn chi bằng mất tự do”, (Hồ Chí Minh).

Mười ngón chưa đặt tên là bài thơ tình, thể hiện sự khát khao về tình yêu: “Em giấu trái tim sâu trong lồng ngực / Anh không thể chạm / Nhưng mười ngón thiên thần của em / Vùi trong tay anh ấm nóng”.

Mười ngón tay, của bất cứ ai đều hiện hữu trước mắt mình và mắt người yêu. Có thể chưa đặt tên, nhưng có thể “Thoa dịu mái đầu phủ khói và trái tim ngập tràn nỗi đau của anh”. Nhân vật “anh” nhận ra, nhưng bỗng giật mình và ngờ vực “Khi chưa đặt tên cho mười ngón”.

Đó là cách lập tứ, lập ngôn của Đinh Nho Tuấn. Đã yêu, tâm lý chung muốn sở hữu ngay cả cảm xúc, chứ không chỉ là thể xác. Đây là điều rất khó. Đọc bài thơ Mười ngón chưa đặt tên của Đinh Nho Tuấn, người đọc dễ nhớ đến bài thơ Xa cách của Xuân Diệu. Ngón tay để vuốt ve, vỗ về, mơn trớn (chữ của Xuân Diệu) thể hiện tình yêu thương lứa đôi. Phải chăng còn một tầng ẩn dụ về những lời hứa chưa được “kiểm chứng”?

Ngày 24/11/2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm